Từ khóa: Kinh tế số, phát triển kinh tế số; Việt Nam.
Diễn đàn cấp cao Công nghệ
Thông tin - Truyền thông Việt Nam 2019 với chủ đề “Chuyển đổi số vì một Việt
Nam hùng cường” được tổ chức tại Hà Nội, ngày 8-8-2019. (Ảnh: TTXVN)
Đặt vấn đề
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự xuất hiện của Internet vạn vật
đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong việc sử dụng dữ liệu vào các hoạt động
của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Trong bối
cảnh đó, kinh tế số đang trở thành xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình
phát triển của lực lượng sản xuất, là giai đoạn phát triển cao của kinh tế tri
thức. Với Việt Nam, phát triển kinh tế số là cơ hội lớn để thu hẹp khoảng cách
phát triển, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2030.
Chính vì vậy, việc nhận thức đúng về kinh tế số và nghiên cứu các quan điểm của
Đảng về phát triển kinh tế số, đồng thời xác định những vấn đề đặt ra cần giải
quyết khi phát triển kinh tế số ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp thúc
đẩy phát triển kinh tế số, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn
2021 - 2030 có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1. Nhận thức về kinh tế số và quan điểm của Đảng về phát
triển kinh tế số ở Việt Nam
1.1. Nhận thức về kinh tế số
Thuật ngữ “Kinh tế số” (digital economy) được
dùng khá lâu trước khái niệm Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Tuy
nhiên, cùng với sự xuất hiện của CMCN 4.0, xu hướng số hóa hay công cuộc chuyển
đổi số thực sự xuất hiện mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực, bởi “cốt lõi” của CMCN 4.0 chính là
chuyển đổi số, với sự tích hợp của số hóa, kết nối/siêu kết nối và xử lý dữ
liệu thông minh.
Theo nhóm cộng tác kinh tế số Oxford, kinh tế số là “một nền kinh tế vận
hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành
thông qua Internet”[1]. Kinh tế số hiện diện trên tất
cả các lĩnh vực của nền kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản
xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính
ngân hàng...
Về bản chất, đây là các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nền
kinh tế dựa trên ứng dụng công nghệ số. Ta có thể dễ dàng bắt gặp hàng ngày
những biểu hiện của công nghệ số xuất hiện ở bất cứ đâu trong đời sống như các
trang thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến hay các ứng dụng về ăn uống, vận
chuyển, giao nhận... cũng tích hợp công nghệ số để đáp ứng nhu cầu thuận tiện
cho khách hàng. Nhưng ở tầm vĩ mô hơn, kinh tế số cũng có những đóng góp không
nhỏ trong sự hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi công nghệ toàn
cầu.
Kinh tế số có thể được tập hợp trong 3 quá trình xử lý chính đan xen với
nhau, bao gồm: Xử lý vật liệu; xử lý năng lượng; xử lý thông tin. Trong đó, xử
lý thông tin đóng vai trò quan trọng nhất, và cũng là lĩnh vực dễ số hóa nhất.
Tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của
công nghệ thông tin và Internet giúp kết nối các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu
trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu.
1.2. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Tại các văn kiện Đại hội XI, XII, khái niệm kinh tế số chưa được nhắc
đến, thay vào đó là khái niệm kinh tế tri thức. Thế nhưng ở Văn kiện Đại hội
XIII, kinh tế số đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cả mục tiêu lẫn chiến
lược. Từ kinh tế tri thức tới kinh tế số là một bước chuyển đổi mang tính rõ
ràng, cụ thể hơn, dễ định lượng và dễ thực hiện, phù hợp với xu thế hơn.
Trong các định hướng lớn bao quát những vấn đề phát
triển quan trọng của đất nước ở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ
2021 - 2030, Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn
thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước; hoàn thiện toàn diện, đồng
bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới
mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chú trọng đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi
số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số”[2, tr.37].
Đảng cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để đưa đất
nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, trong đó có nhấn mạnh trọng tâm:
“Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế.
Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển
kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”[2, tr.46].
Để thực hiện nhiệm vụ nói trên, Đảng ta xác định một
trong ba khâu đột phá đó là: “Xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, về môi trường và quốc phòng,
an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao
thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin,
viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế
số, xã hội số”[2, tr.54].
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng xác định: “kinh tế số
đạt khoảng 20% GDP”[2, tr.113]. Định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng chỉ rõ: “...đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền
tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị
trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế”[2, tr.115].
2. Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam và một số vấn
đề đặt ra
2.1. Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Trong thời gian qua, kinh tế số ở Việt Nam phát
triển mạnh cả về nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh, đặc biệt Internet
đã trở thành một phần thiết yếu của các ngành thương mại dịch vụ như ngân hàng,
giao thông, y tế... Việt Nam được đánh giá là 01 trong 20 nước có tỷ lệ sử dụng
Internet nhiều nhất thế giới với 68,17 triệu người dùng (chiếm 70% dân số)[5].
Theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2020”, tốc
độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức hai con số, dẫn
đầu khu vực (cùng với Indonesia) với
tốc độ tăng trưởng trung bình 27% trong giai đoạn 2015-2020. Năm 2020, trong
bối cảnh suy giảm chung của kinh tế toàn cầu và khu vực, tốc độ tăng trưởng
kinh tế số của Việt Nam vẫn đạt mức dương 16% - cao nhất khu vực ASEAN (xem số
liệu hình 1)[3].
Hình 1:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á (%)
Nguồn: Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á năm 2020”
Quy mô nền kinh tế số tại Việt Nam từ 3 tỷ USD năm 2015 đã tăng lên 12 tỷ
USD vào năm 2019 và 14 tỷ USD năm 2020. Dự kiến đến năm 2025 bứt phá lên 52 tỷ USD. Trong đó, thương mại điện tử, một
trong những cấu phần trọng yếu nhất của kinh tế số, đã góp phần đáng kể thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Theo Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử Việt
Nam 2021, thương mại điện tử nước ta năm 2020 tăng trưởng khoảng 15%, đạt quy
mô khoảng 13,2 tỷ USD và sẽ tiếp tục tăng trưởng vững chắc trong năm 2021 cũng
như cả giai đoạn tiếp theo tới năm 2025[4, tr.8].
Trong những năm gần đây, có nhiều mô hình kinh tế số phát triển tại Việt
Nam, với nhiều ứng dụng có thể cài trên điện thoại thông minh, giúp người sử
dụng có thể gọi xe, giao-nhận hàng, đặt vé máy bay, đặt đồ ăn, thuê phòng lưu
trú, thuê gia sư, thuê giúp việc, thuê dịch vụ sửa chữa các thiết bị trong gia
đình... thậm chí người dùng cũng có thể kết nối bác sĩ chăm sóc sức khỏe tại
nhà.
Việt Nam đã phát triển nhiều phương thức trực tuyến trong điều hành, làm
việc, đào tạo của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, trường học... Hiện nay,
phổ biến nhất trong các doanh nghiệp đó là số hóa trong lưu trữ, xử lý dữ liệu
từ sản xuất đến đưa sản phẩm ra thị trường. Mạng lưới 5G của Việt Nam đang thử
nghiệm, bắt đầu triển khai từ cuối năm 2021. Tại Việt Nam, mức giá cước dịch vụ
Internet vừa phải, cước dịch vụ Internet băng thông rộng cố định ở mức thấp
nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Cùng với thương mại điện tử, giao dịch kinh tế không dùng tiền mặt ngày
càng phát triển tại Việt Nam, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp kịp thời nắm bắt,
ứng dụng các công cụ của kinh tế số cũng như quá trình thực hiện Chính phủ điện
tử được triển khai nhanh và quyết liệt hơn.
2.2. Một số vấn đề đặt ra
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi
nhận thì việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam cũng đang đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết. Cụ thể là:
Thứ nhất, vấn đề chú trọng nâng cao nhận thức cho người dân, doanh nghiệp và cán bộ
quản lý nhà nước về kinh tế số, do hiện nay nhận thức của nhóm đối tượng này
còn chưa đồng đều, kỹ năng sử dụng Internet an toàn còn hạn chế và chưa theo
kịp với tốc độ phát triển của công nghệ. Theo báo cáo kinh tế Việt Nam thường
niên do Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội công bố cuối tháng 5/2019 cho thấy, có tới 85% doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam vẫn nằm ngoài nền kinh tế số, chỉ có 13% ở cấp độ mới bắt đầu.
Thứ hai, vấn đề hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển kinh tế số do sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, kinh tế số cùng các phương thức kinh
doanh và các ý tưởng sáng tạo mới xuất hiện, chưa có tiền lệ đã làm cho các cơ
quan quản lý nhà nước khá lúng túng trong quản lý các hoạt động kinh tế số. Hệ
thống thể chế, chính sách cũng như các thiết chế thực thi, giải quyết tranh
chấp và hiệu lực của cơ quan thực thi liên quan đến phát triển kinh tế số hiện
nay còn yếu, chưa đồng bộ và hiệu quả nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát
triển kinh tế số.
Thứ ba, giải quyết khoảng cách lớn về trình độ phát triển kinh tế số nói chung và
thương mại điện tử nói riêng giữa thành thị với các khu vực nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của nước ta do kết cấu
hạ tầng thiết yếu cho phát triển kinh tế số chưa đồng bộ, vẫn có sự mất cân
bằng giữa các lĩnh vực, vùng miền.
Thứ tư, vấn đề về thiếu hụt nguồn nhân lực
chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông ở Việt Nam
hiện nay do giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển nhanh chóng của
kinh tế số, kinh tế sáng tạo của CMCN 4.0 trên thế giới. Vấn đề này nếu không
được quan tâm đầu tư đúng mức trong thời gian tới sẽ trở thành một điểm nghẽn
lớn cho phát triển kinh tế số ở Việt Nam.
3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số ở
Việt nam trong thời gian tới
Văn kiện Đại hội XIII xác định, đến năm 2025 kinh tế
số đạt tỷ trọng 20% GDP, đến năm 2030 kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP[2, tr.113,
218]. Để đạt mục tiêu này, cần thực hiện đồng bộ một số
giải pháp sau nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế số, tạo động lực mới cho tăng
trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2030:
Một là, trang bị kiến thức, thống nhất tư tưởng và hành
động về kinh tế số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy lãnh đạo, quản lý cũng
như điều hành kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế số
Việt Nam phải xác định chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế số là xu
thế tất yếu của thời đại, là hướng đi quan trọng và cần thiết trong định hướng
phát triển quốc gia, là cơ hội để Việt Nam bứt phá và đi tắt, đón đầu. Theo đó,
Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước cần đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy
đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số và đi tiên phong trong quá trình số hóa bộ máy
quản trị quốc gia. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tích hợp công nghệ số
hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số
hóa; tối ưu hóa mô hình kinh doanh, sử dụng hiệu quả chuỗi cung ứng thông minh;
phát triển kỹ năng mới cho đội ngũ nhân viên như tăng cường năng lực tiếp cận,
tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay
đổi và phát triển. Người dân cần tích cực, chủ động nâng cao nhận thức về kinh
tế số, trong các giao dịch thanh toán nên ưu tiên sử dụng các phương thức thanh
toán điện tử hiện đại như quét mã QR, thanh toán bằng ví điện tử qua điện thoại
di động...
Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp
với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển kinh tế số, xã hội số
Nội dung về kinh tế số cần được luật hoá để bảo đảm một hành lang, cơ sở
pháp lý vững chắc, thống nhất cho triển khai và thực hiện chương trình nghị sự
về kinh tế số. Thành lập cơ quan thiết chế chuyên trách, có thẩm quyền, trách
nhiệm cao trong việc phát triển kinh tế số, thông thường cơ quan này thường
thuộc Chính phủ với sự tham gia, phối hợp của các bộ ngành có liên quan. Nhà
nước cần ban hành các nghị định về chia sẻ dữ liệu, xác thực điện tử, bảo vệ dữ
liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân cũng như việc xử lý, giải
quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự
trên môi trường số. Đặc biệt là do trong một số trường hợp, những sáng kiến số
có thể dẫn đến những tranh luận về vấn đề an ninh mạng, bảo mật dữ liệu người
dùng, thông tin cá nhân... nên việc xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật
đồng bộ vừa tạo điều kiện cho quá trình số hóa trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, vừa bảo vệ được quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp
và Chính phủ là hết sức cần thiết.
Ba là, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng thiết yếu cho
nền kinh tế số
Trước hết, cần khẩn trương triển khai hiệu quả các
mạng lưới băng thông rộng quốc gia tốc độ cao, các trung tâm dữ liệu và cơ sở
dữ liệu cho các dịch vụ điện toán đám mây... tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết
nối theo xu hướng IoT, sử dụng công nghệ số cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình đầu tư xây dựng nền tảng số nói chung, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
số nói riêng cần đặc biệt lưu ý đến những đặc thù của khu vực thành thị và nông
thôn để có kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số ở hai khu vực này một
cách cân bằng và hài hòa, góp phần rút ngắn khoảng cách và chênh lệch phát
triển giữa thành thị - nông thôn.
Bốn là, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực cho nền kinh tế số; phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin
Công tác giáo dục và đào
tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế số cần tập trung
vào một số nội dung như: Cập nhật, bổ sung các chương trình đào tạo về công
nghệ số, nền tảng số, từ mã hóa đến tư duy thiết kế và các kỹ năng số cần thiết
cho tương lai trong nhà trường; đổi mới giáo dục, đào tạo bồi dưỡng để đào tạo
và đào tạo lại lực lượng lao động bắt kịp với xu hướng công nghệ số; đẩy mạnh
liên kết đào tạo và thực hành giữa trường với khu vực doanh nghiệp trong ứng
dụng công nghệ số; xây dựng chính sách kết nối cộng đồng khoa học công nghệ
trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Hội thảo chuyên đề 5 về “Phát triển các mô hình kinh doanh mới trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” sáng 11/11/2021. (Ảnh: https://vneconomy.vn)
Chính sách thúc đẩy nguồn nhân lực công nghệ thông tin cần phải tính toán
đến nhóm yếu thế trong xã hội như người khuyết tật, nông dân, phụ nữ... để đưa
ra những chính sách ưu tiên cụ thể nhằm bảo đảm bình đẳng, công bằng trong xã
hội. Trong đó, phải xây dựng được một lực lượng lao động số nòng cốt, đủ về số
lượng và đáp ứng được về chất lượng để phục vụ yêu cầu số hóa mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội từ nông nghiệp đến công nghiệp và dịch vụ.
Kết
luận
Phát triển kinh tế số là xu thế
tất yếu của thời đại, là cơ hội để Việt Nam bứt phá và đi tắt, đón đầu. Với chủ
trương, đường lối của Đảng cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nói
trên chắc chắn sẽ là cơ sở vững chắc để Việt Nam tự tin về khả năng chuyển đổi
thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số - chìa khóa cho tăng
trưởng trong giai đoạn 2021 - 2030.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Minh Duyên
(2021), Phát triển kinh tế số - đòn bẩy cho sự phục hồi bền vững
trong bối cảnh dịch COVID-19, https://ncov.vnanet.vn
[2]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
[3] Google,
Temasesk và Brain and Company
(2020), Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2020”, https:// www.bain.com
[4] Hiệp hội
Thương mại điện tử Việt Nam
(2021), Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2021, https://vecom.vn
[5] Hồng Vân
(2020), Thành tựu phát triển Internet ở Việt Nam: đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của
người dân, https://vovworld.vn