Thứ Năm, ngày 06/10/2022, 20:42

Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam - Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái

NGUYỄN THÚY HOA
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của nhân dân là quan điểm, chủ trương lớn của Việt Nam đã được thực hiện đồng bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có lộ trình và bước đi vững chắc trong tạo lập các điều kiện bảo đảm. Bài viết góp phần nhận diện và phản bác những quan điểm sai trái, cực đoan khi cho rằng quyền tiếp cận thông tin của nhân dân ở Việt Nam hiện nay chỉ mang tính hình thức.

Từ khóa: Bảo vệ nền tảng tư tưởng; nhận diện, phản bác các quan điểm sai trái; quyền tiếp cận thông tin.

Ngày 06 - 4 - 2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 - 7 - 2018

Đặt vấn đề

Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, làm thất bại những âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, trong toàn dân là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm đưa ra các luận cứ xác đáng, phê phán quan điểm cho rằng Việt Nam không bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, vi Hiến cũng như không tuân thủ cam kết quốc tế về nhân quyền là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc ở Việt Nam hiện nay.

1. Nhận diện một số quan điểm sai trái về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay

Một là,các phần tử cơ hội, chống đối cho rằng: Năm 1977, Việt Nam là thành viên tổ chức Liên hợp quốc, gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực dân sự, chính trị; kinh tế - xã hội và văn hóa từ năm 1982 song chậm xúc tiến thực hiện các cam kết quốc tế về quyền tiếp cận thông tin. Sự ghi nhận quyền tiếp cận thông tin trong các bản Hiến pháp 1992, 2013 chỉ là quy định khung, mang nặng tính hình thức với nhân dân và cộng đồng quốc tế. Trên thực tế, Việt Nam không có hành lang pháp lý quy định cụ thể, chi tiết để bảo vệ, bảo đảm quyền này cho nhân dân.

Quan điểm này được dẫn luận rằng: Quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”[3]; và “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ”[4].

Từ viện dẫn này, một số đối tượng cực đoan, chống đối khẳng định Việt Nam đã tham gia ký kết các văn kiện từ năm 1982 song không bảo đảm các quyền đó trong suốt một thời gian dài. Điều này vừa vi phạm các cam kết quốc tế, vừa thể hiện tính dân chủ hình thức trong thực hiện quyền tiếp cận thông tin của nhân dân.

Hai là,các phần tử cơ hội chống đối cho rằng,dưới sức ép và phong trào đấu tranh dân chủ lớn mạnh trên bình diện quốc tế và trong nước, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 song không tiến hành triển khai ngay mà kéo dài thời điểm phát sinh hiệu lực tận 2 năm sau đó. Các quy định trong Luật này đã thu hẹp quyền bằng việc đưa ra hàng loạt “vùng cấm” với danh nghĩa thông tin thuộc bí mật nhà nước mà nhân dân không được tiếp cận tại Điều 6 giúp cho một bộ phận cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức “độc quyền” về thông tin nhằm trục lợi, từ đó mà bảo vệ ích nhóm, lợi ích cá nhân.

Cùng với việc trích dẫn các quy định tại Điều 6 của Luật Tiếp cận thông tin, để xuyên tạc và làm sai lệch nội hàm “quyền tiếp cận thông tin” là “tự do thông tin” không giới hạn; chúng cho rằng, việc xác định nội hàm: “Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; … thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ[6]hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin. Từ đó dẫn dắt và quy chụp cho rằng, mặc dù hiện nay đã có khung pháp lý song việc quy định đó chỉ mang tính hình thức, che mắt cộng đồng quốc tế về việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, rằng thực tế người dân Việt Nam không được bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tự do thông tin của mình theo các tiêu chuẩn chung của thế giới, mà xác lập một kiểu riêng biệt, đặc thù chỉ có ở nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Ba là, ở chiều ngược lại một số phần tử cơ hội, quá khích cho rằng, mặc dù đã có khung pháp lý song Chính phủ Việt Nam thiếu nhất quán tư tưởng, nói không đi đôi với làm trong bảo đảm quyền tiếp cận thông tin. Nhận định trên được minh họa bằng việc lợi dụng công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng các quyền tự do, bí mật thông tin cá nhân. Những phần tử này đã cố tình lập lờ, đánh tráo bản chất vấn đề khi cho rằng, “quyền bí mật đời tư” đã bị xâm phạm nghiêm trọng khi các bệnh nhân nhiễm covid (F0) bị công khai tên tuổi, lịch trình di chuyển cùng các mối quan hệ tiếp xúc riêng tư; quyền tự do đi lại bị tùy tiện hạn chế thông qua việc cưỡng chế cách ly tập trung và thực hiện bắt buộc giãn cách xã hội.

2. Phê phán và bác bỏ các quan điểm sai trái về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX khi vừa thoát khỏi chiến tranh, dù gặp muôn vàn khó khăn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là bị cấm vận thương mại, Việt Nam đã chủ động gia nhập các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Ngay trong năm 1982, Việt Nam đăng ký trở thành thành viên của bốn(1) công ước quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc về quyền con người trong đó nổi bật là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966). Điều này đã khẳng định quyết tâm và nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong việc chủ động hội nhập quốc tế, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.

Để tạo lập cơ sở pháp lý, Hiến pháp 1992 đã xác định quyền được thông tin là quyền cơ bản của công dân. Từ sự Hiến định: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin… theo quy định của pháp luật[7], hệ thống pháp luật có sự cụ thể hóa quyền này trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, là cơ sở, là nền tảng xây dựng xã hội dân chủ, củng cố niềm tin, sự đồng thuận trong hoạt động của bộ máy nhà nước, quản lý đời sống và xã hội và thúc đẩy bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đến Hiến pháp 2013, quyền tiếp cận thông tin được tái khẳng định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin... Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”[8].

Cần phải hiểu rằng, quyền tiếp cận thông tin không chỉ quy định bởi một luật là đủ, mà cầnđã được phủ rộng trong toàn bộ khung pháp lý quốc gia như: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Trưng cầu ý dân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về mở rộng dân chủ; tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền tham gia quản lý xã hội của mình. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa tái khẳng định sự nhất quán về tư tưởng chỉ đạo khi ghi nhận: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”[2, tr.38]. Bởi, có bảo đảm được quyền tiếp cận thông tin trong đời sống chính trị, xã hội của nhân dân mới “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện… Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[2, tr.173].

Như vậy không thể nói mãi đến năm 2016 khi ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Việt Nam mới xây dựng cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền này của nhân dân hay Việt Nam lập lờ, cố tình vi phạm, không tuân thủ các cam kết quốc tế đã phê chuẩn, ký kết.

Thứ hai, "Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia"[1, tr.13]. Trong quá trình thực thi dân chủ, mỗi quốc gia có quyền lựa chọn các giải pháp tối ưu nhằm ổn định chính trị - xã hội với bảo đảm quyền con người; có quyền xây dựng lộ trình trong việc thực hiện cam kết quốc tế về nhân quyền. "Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác"[1, tr.13]. Đây chính là lý do mà trong suốt quá trình xây dựng và phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua mỗi giai đoạn, chúng ta không ngừng mở rộng và từng bước đảm bảo điều kiện để hiện thực hóa các quyền dân chủ trong đó có quyền tiếp cận thông tin của nhân dân. Điều này không có nghĩa là sự biện minh, vin vàotính đặc thù, vào những khó khăn nhất thời để trì hoãn việc thực hiện các cam kết, mà là sự định hướng, có lộ trình cụ thể đảm bảo các điều kiện về chính trị - pháp lý, kinh tế - văn hóa - xã hội … để vươn tới các giá trị tiến bộ, văn minh, trong đó đề cao giá trị tự do, dân chủ.

Thứ ba, khi đề cập đến “quyền” tiếp cận thông tin cần phải hiểu đúng nội hàm, tránh đánh tráo khái niệm. Tiếp cận thông tin không phải là quyền tuyệt đối, không bị giới hạn của mỗi chủ thể, mà cần tuân thủ các quy định trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền đã khẳng định: Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn[3].

Bên cạnh đó, luật quốc tế cũng cho phép các quốc gia thành viên đưa ra những biện pháp hợp lý để hạn chế thực hiện một số quyền khi tuân thủ các điều kiện: Các biện pháp hạn chế phải được quy định trong pháp luật quốc gia; không trái với bản chất của quyền bị hạn chế; vì mục đích thúc đẩy phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ[5]. Quy định trên mang hàm nghĩa, biện pháp hạn chế quyền không thể áp dụng theo cách thức độc đoán, tùy tiện. Trong một số trường hợp, quyền phải chịu giới hạn vì các mục đích an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe và đạo đức xã hội; và vì quyền và tự do của người khác.

Như vậy, về các thông tin không được tiếp cận, tiếp cận có điều kiện được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp 2013 cũng như các văn kiện quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, gia nhập. Đó chính là sự hạn chế quyền con người, quyền công dân “trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[8].

Tháng 3/2020, với những diễn biến đặc biệt nguy hiểm của bệnh viêm đường hô hấp cấp, WHO đã công bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu và Việt Nam không đứng ngoài sự tấn công của dịch bệnh. Trước những khó khăn, hạn chế về cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên y tế, đặc biệt thách thức trong việc tiếp cận, bao phủ vacxin tạo hệ miễn dịch cộng đồng… việc hạn chế một số quyền của công dân trong thực hiện phương pháp truy vết, khoanh vùng (giai đoạn đầu), giãn cách xã hội là việc làm cần thiết. Các biện pháp quản lý trong giai đoạn này nhằm mục đích phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân, phù hợp với quy định của Hiến pháp cũng như Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm (2007), Luật Khám bệnh, chữa bệnh (2009)… Khi dịch bệnh dần được kiểm soát, những biện pháp hạn chế một số quyền của công dân đã được Chính phủ, chính quyền các địa phương tháo bỏ nhanh chóng nhằm bảo vệ, thúc đẩy các quyền tự do dân sự, kinh tế. Đây là những quyết sách linh hoạt, kịp thời của công tác quản lý để Việt Nam ghi dấu ấn mạnh mẽ trong kiểm soát, phòng và chữa trị dịch bệnh với ít tổn thất nhất trong điều kiện của đất nước hiện nay. Chính vì thế, các quan điểm cho rằng Việt Nam lợi dụng các quy định trong phòng, chống dịch để xâm phạm các quyền riêng tư của công dân… về bản chất là xuyên tạc, kích động một bộ phận có bất đồng về chính kiến chống lại các chủ trương, chính sách y tế, giáo dục, thương mại… của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.

Hiện nay, dịch Covid-19 về cơ bản đã được kiểm soát, kinh tế – xã hội của đất nước giữ vững sự ổn định, các cân đối vĩ mô được bảo đảm, lạm phát trong tầm kiểm soát[9]. Thực tiễn đất nước cùng với nhận định về “nền kinh tế Việt Nam đã duy trì đà phục hồi mạnh mẽ”[10] của Ngân hàng Thế giới (WB) là những bằng chứng xác thực đập tan các lập luận xuyên tạc, vu cáo về tình hình nhân quyền bị xâm phạm ở Việt Nam trong giai đoạn chống dịch vừa qua.

3. Một số giải pháp tăng cường đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lợi dụng quyền tiếp cận thông tin để xuyên tạc bản chất dân chủ ở Việt Nam

(Ảnh: https://dangcongsan.vn)

Một là, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tuyên truyền chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bảo vệ, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin tới các quốc gia, bè bạn quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh đối thoại song phương, đa phương với các tổ chức quốc tế, các quốc gia, dân tộc… cùng hiểu đúng về quyền và cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái cố tình xuyên tạc, vu khống về tình hình nhân quyền nói chung và tình hình thực thi quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam nói riêng, qua đó tạo sự đồng thuận, ủng hộ mạnh mẽ từ các quốc gia, cộng đồng quốc tế tiến bộ; tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý cho nhân dân, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin… giúp cho người dân hiểu rõ giới hạn quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ công dân khi tiếp cận thông tin, tránh hiểu sai lệch về bản chất quyền dẫn đến tư tưởng thụ hưởng quyền song khước từ nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Trong đó, cần chú trọng đa dạng hóa hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng nhóm đối tượng, nâng cao hiệu quả tuyên truyền qua ứng dụng các nền tảng kỹ thuật số, mạng xã hội.

Ba là, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin phải bảo đảm nguồn nhân lực, trang bị cơ sở vật chất, đặc biệt là đầu tư thiết bị hỗ trợ để các tổ chức, cá nhân, người khuyết tật (nghe, nhìn, vận động…) có điều kiện thụ hưởng quyền tiếp cận thông tin nhanh chóng, thuận lợi với chi phí thời gian, kinh phí thấp nhất.

Bốn là, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm quyền tiếp cận thông tin như hành vi cản trở, yêu sách, trục lợi việc tiếp nhận và cung cấp thông tin hoặc tùy tiện hạn chế quyền tiếp cận thông tin. Tiến hành tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tiếp cận thông tin, lắng nghe ý kiến phản hồi từ nhân dân, các nhà khoa học pháp lý để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm vừa tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế - văn hóa, xã hội của Việt Nam.

Kết luận

Tiếp cận thông tin không phải là quyền mới được ghi nhận từ năm 2016 ở Việt Nam. Nó được hình thành và bảo đảm thực hiện trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội trong suốt quá trình xây dựng Nhà nước dân chủ, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập, ký kết các văn kiện quốc tế về quyền con người. Luật Tiếp cận thông tin 2016 là sự cụ thể hóa, phát triển tiếp nối các giá trị quyền con người trong đời sống dân chủ. Nội luật hóa tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do thông tin, Luật đã xác định rõ hơn nội dung, quy trình tiếp cận, đặc biệt là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong cung cấp thông tin. Đây chính là những cơ sở pháp lý bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân - nhân dân là chủ thể tối cao trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

(1) Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1979); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (1969).

[1] Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Thường trực (2012), Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta", Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3]Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, http://thuvienphapluat.vn

[4]Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), http://thuvienphapluat.vn

[5]Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, http://thuvienphapluat.vn

[6]Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Tiếp cận thông tin, http://thuvienphapluat.vn

[7]Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, http://thuvienphapluat.vn

[8]Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, http://thuvienphapluat.vn

[9]Tổng cục Thống kê (2022), Kinh tế – xã hội tháng năm và 5 tháng đầu năm 2022 tiếp tục khởi sắc, https://www.gso.gov.vn

[10]WB: Kinh tế Việt Nam đã duy trì đà phục hồi mạnh mẽ, https://baochinhphu.vn

Đọc thêm

Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta

Tác giả: TS. Bùi Hồng Thanh

(LLCTTTĐT) Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao mức sống cho người dân và được cụ thể bằng quan điểm Đảng và Nhà nước ta phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào được lý giải trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Khơi thông mọi nguồn lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Tác giả: PGS. TS. Đào Duy Quát

(TG) - Chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở”, đồng thời “huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”.

Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền

Tác giả: TSKH. Đặng Huy Trinh

(TG) - Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới

Tác giả: PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa - TS Nguyễn Văn Dương

(LLCT) - Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng xây dựng, vun đắp. Bài viết khái quát mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo phương châm “hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện”, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hai nước đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là nền tảng xây dựng đạo đức công vụ

Tác giả: Bảo Châu

(TG) - Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng đối với việc củng cố uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần tạo động lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên làm nền tảng xây dựng đạo đức công vụ là yêu cầu, nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.