Bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV - Ảnh TTXVN
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra tầm nhìn lãnh đạo: đến
năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Xét các điều kiện
hiện tại, khát vọng chính đáng đó đối diện những thách thức không nhỏ, đặc biệt
trong tăng trưởng kinh tế(2). Để gia nhập nhóm
nước phát triển thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam phải đạt tối thiểu từ
12.000 - 15.000 USD/năm
(năm 2019 chỉ đạt 2.715 USD); và chỉ số phát triển con người (HDI) của quốc gia phát triển phải vượt 0.8 (HDI của Việt Nam năm
2019 là 0.704). Có thể thấy, khả năng hiện thực hóa tầm nhìn lãnh đạo đến năm
2045 đòi hỏi không chỉ nỗ lực và quyết tâm của các nhà lãnh đạo và bộ máy chính
quyền, mà cần sự chung tay của mọi tầng lớp nhân dân cũng như các chủ thể tư
nhân và chủ thể xã hội. Nếu ví đất nước như một con thuyền và “quốc gia phát
triển” là đích đến thì việc chèo lái con thuyền đó đang đứng trước nhu cầu đổi
mới theo hướng hiện đại hóa cả về tư duy và các mô hình thực tiễn.
Tại Đại hội XIII, lần đầu tiên các văn kiện Đảng sử dụng khái
niệm “quản trị quốc gia”, thể hiện sự đổi mới trong tư duy lý luận và quản trị
của Đảng. Khái niệm “quản trị” nhấn mạnh tính chất đa chủ thể, đa trung tâm và
nhiều cấp độ của hệ thống “chèo lái, điều khiển” quốc gia, đề cao sự hợp tác
giữa các chủ thể, cả công và tư, cả trong nước và quốc tế để giải quyết các vấn
đề mang tính tập thể (3).
1. Tầm nhìn lãnh đạo đến năm 2045 và những thách thức
Độc lập dân tộc và quốc gia hùng cường luôn là một khát vọng
nhất quán của Đảng ta kể từ khi thành lập và thực hiện vai trò lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Tháng 5-1941, tại Hội nghị Trung ương 8, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
nhấn mạnh các lợi ích của dân tộc, đó là độc lập và tự do. Năm 1945, thư Bác Hồ
gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cũng cháy bỏng khát vọng đưa đất nước ta “sánh vai với các cường quốc năm
châu”. Tinh thần này tiếp tục được khẳng định trong “Lời kêu gọi” do Chủ tịch
nước viết năm 1966: xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Sau khi
đất nước thống nhất và bước vào thời kỳ đổi mới, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” hay một Việt Nam “phát triển và có thu nhập cao vào năm
2045” là những giá trị và tầm nhìn lãnh đạo thể hiện sự tiếp nối khát vọng quốc
gia hùng cường. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử, các tầm nhìn lãnh đạo khẳng định
sứ mệnh chính trị cao nhất của Đảng ta như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Ðảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng, ngoài lợi ích
của dân tộc, của Tổ quốc, thì Ðảng không có lợi ích gì khác.
Với các điều kiện hiện tại của đất nước để hiện thực hóa khát
vọng Việt Nam đến năm 2045 trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao cần
vượt qua nhiều thách thức trong lãnh đạo, quản lý.
Thứ nhất, về bối cảnh, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
bốn đặc điểm chính trong thế giới hiện nay: đó là một thế giới ngày càng trở
nên phức tạp, phụ thuộc lẫn nhau, thay đổi nhanh và không chắc chắn(4). Những đặc điểm này
đặt ra các thách thức to lớn đối với lãnh đạo bởi đó là những vấn đề được hình
thành bởi nhiều nguyên nhân có liên quan đến nhau, xuất hiện trong bối cảnh
thay đổi nhanh, nhiều chủ thể và lợi ích phụ thuộc lẫn nhau, phức tạp về các
mối quan hệ và đa dạng về quan điểm đánh giá hay xử lý vấn đề.
Trước những vấn đề mới và nan giải, các phương án xử lý truyền
thống không hẳn còn phù hợp. Không một cá nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có thể
cung cấp câu trả lời cho các vấn đề đó. Thực tế này đòi hỏi phương châm, cách
thức lãnh đạo và quản lý quốc gia phải có sự điều chỉnh để thích ứng và bảo đảm
khả năng thành công cho các tầm nhìn lãnh đạo.
Thứ hai, trong thế giới hiện đại, phát triển là một
quá trình đặt trọng tâm vào con người và vì con người(5). Phát triển là một
quá trình nhằm tạo ra những thay đổi tích cực, cải thiện về mức sống cũng như
năng lực tự chủ cao hơn của người dân trong các nền kinh tế vốn đang ngày càng
trở nên phức tạp và phụ thuộc hơn vào hội nhập quốc tế. Điều này cũng có nghĩa,
phát triển quốc gia không đơn thuần là tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và trở nên
giàu có. Quá trình phát triển vì con người phải hướng đến gia tăng được năng
lực cả về vật chất và phi vật chất cho con người. Các thành tựu phát triển phải
đem đến cho con người cuộc sống khỏe mạnh và nâng cao tuổi thọ; gia tăng tri
thức và sự hiểu biết; cũng như một mức sống đầy đủ. Đó chính là quá trình giúp
mỗi cá nhân có đủ khả năng tự nhận biết và theo đuổi một cuộc sống tốt đẹp và
có ý nghĩa theo cách riêng của họ(6).
Thứ ba, 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tích
đáng tự hào về xóa đói, giảm nghèo và cải thiện chỉ số phát triển con người,
Việt Nam hiện vẫn phải đối diện với rất nhiều vấn đề có thể ảnh hưởng đến các
mục tiêu phát triển(7). Đại hội XIII của
Đảng ghi rõ: “nền kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, khó khăn, thách thức
và tiềm ẩn nhiều rủi ro; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ
thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng
trong nước nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh
tế... Quản lý phát triển xã hội còn một số hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát
triển. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn yếu kém,
khắc phục còn chậm. Công tác y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề, chính sách
tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, người lao động. Kết quả giảm
nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch giàu - nghèo còn
lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai(8).
2. Xu hướng vận động của các mô hình quản lý và quản trị công
Khát vọng Việt Nam đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có
thu nhập cao đang đặt ra nhu cầu đổi mới mạnh mẽ cách thức quy tụ sự ủng hộ của
mọi tầng lớp nhân dân cũng như tập hợp và phát huy tốt nhất các nguồn lực hiện
có cho mục đích chung của dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay, quan điểm phổ biến ở
Việt Nam vẫn nhấn mạnh vai trò của chính quyền trong tư cách một hệ thống kiểm
soát các quan hệ xã hội và thực thi các quyết định chính sách(9). Xét tiến trình phát
triển của nhân loại, bối cảnh trong nước và thế giới hiện nay, tư duy và các mô
hình quản lý vốn quá nhấn mạnh vai trò của chính quyền đang ngày càng bộc lộ
những bất cập.
Xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, lý thuyết “hành chính công” truyền
thống đặt trọn lòng tin vào hệ thống chính quyền, đội ngũ công chức, quy trình
hành chính trong việc quản lý và giải quyết các vấn đề công(10). Ba đặc điểm chính
của hệ thống hành chính công hiện đại gồm: (i) cấu trúc tổ chức và
đội ngũ nhân sự được bố trí theo trật tự thứ bậc với thẩm quyền và nhiệm vụ rõ
ràng; (ii) hệ thống hành chính vận hành theo các nguyên tắc khách quan; (iii) đội ngũ nhân sự được
tuyển dụng dựa trên năng lực chuyên môn, bảo đảm công việc lâu dài và mức lương
cố định. Bộ máy quản lý hành chính chuyên môn hóa được tổ chức dựa trên nguyên
tắc duy lý khoa học. Do đó, hiệu quả và hiệu lực thực thi chính sách và quản lý
xã hội đã từng là những ưu điểm lớn nhất của hệ thống này.
Trước sự vận động của xã hội hiện đại, mô hình quản lý hành
chính nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều bất cập(11). Thứ nhất, lý thuyết
hành chính công quá đề cao vai trò của chính quyền trong việc giải quyết các
vấn đề công. Thực tế cho thấy, bản thân chính quyền không thể có đủ nguồn lực
để đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng và đòi hỏi cao hơn của người dân. Hạn
chế thứ hai là niềm tin rằng chính quyền là chủ thể duy nhất và đội ngũ công
chức chuyên nghiệp là những người có khả năng nhất trong việc đáp ứng và bảo vệ
các lợi ích công.
Trên thực tế, các vấn đề công ngày càng phức tạp và trở thành
thách thức khó vượt qua cho các nhân viên công quyền. Quản lý hành chính và
thực thi chính sách không phải là một quy trình đơn giản và tách biệt với xã
hội. Đội ngũ công chức hành chính thường xuyên phải đối diện với nhiều yếu tố
không thể lường trước, vốn có thể ảnh hưởng đến hiệu quả và hiệu lực quản lý xã
hội của bộ máy chính quyền. Những hạn chế này bộc lộ rõ hơn khi các chủ thể
ngoài nhà nước ngày càng trưởng thành và có đủ năng lực để tham gia giải quyết
các vấn đề mang tính tập thể.
Trước những hạn chế của mô hình quản lý hành chính công, lý
thuyết “quản lý công mới” hình thành từ đầu những năm 1980, hướng đến gia tăng
hiệu lực, hiệu quả, tính linh hoạt và khả năng đáp ứng nhu cầu của bộ máy chính
quyền(12). Cụ thể hơn, lý thuyết “quản lý công mới” đề
cao việc áp dụng các nguyên tắc tổ chức và quản lý của khu vực tư nhân vào các
tổ chức công; thúc đẩy cạnh tranh thị trường; và sử dụng công cụ “hợp đồng”
trong việc phân bổ nguồn lực và cung ứng dịch vụ công. Thực tế này dẫn đến sự
hình thành các quan hệ mạng lưới và liên ngành, sự hợp tác mang tính đối tác
giữa các chủ thể chính quyền và chủ thề ngoài chính quyền. Mô hình quản lý
doanh nghiệp, các nguyên tắc và quy trình kiểm soát nguồn lực đầu vào, kết quả
đầu ra và đánh giá hiệu quả cũng như tác động vốn phổ biến trong khu vực tư
nhân được cho là sẽ giúp gia tăng khả năng thành công trong các hoạt động quản
lý công của chính quyền. Ưu điểm của mô hình quản lý công mới chính là hiệu
lực, hiệu quả và khả năng đáp ứng linh hoạt nhu cầu của xã hội, qua đó gia tăng
mức độ hài lòng của công dân đối với chính quyền.
Sau hơn ba thập kỷ vận dụng, mô hình quản lý công mới cũng bị
phê phán bởi những hạn chế ngày càng rõ(13).
Việc coi công dân như khách hàng của chính quyền nhanh chóng bộc
lộ sự thiếu thuyết phục. Thực tế, quan hệ giữa người dân và chính quyền phức
tạp hơn nhiều so với mối quan hệ giữa người mua hàng và người bán hàng. Các tổ
chức công cũng không thể hoạt động như các doanh nghiệp. Lý thuyết quản lý công
mới cũng đã quá nhấn mạnh các mối quan hệ liên tổ chức trong khi thế giới ngày
càng trở nên đa dạng, đòi hỏi sự hợp tác giữa các quốc gia để cùng giải quyết
các vấn đề công.
Việc đề cao các kỹ năng quản lý của khu vực tư nhân và áp dụng
trong khu vực công, vốn phức tạp hơn nhiều, nhanh chóng trở nên lạc hậu. Đặc
biệt, tư duy quản lý công mới dù có ưu thế về tính hiệu lực, hiệu quả và khả
năng linh hoạt đáp ứng nhu cầu đa dạng của công dân, gia tăng mức độ hài lòng
của cá nhân công dân, nhưng lại tỏ ra không phù hợp với việc xây dựng và vun
đắp các giá trị tập thể như: sự chính danh chính trị của các thể chế công, lòng
tin chính trị, sự công khai và minh bạch, hay quyền con người.
Những hạn chế cơ bản nêu trên của lý thuyết quản lý công mới
thúc đẩy sự hình thành lý thuyết “quản trị công mới”
Những năm 1970, khái niệm “quản trị - governance” thường được sử
dụng hoán đổi với “cai trị - government”. Từ đầu những năm 1980, “quản trị”
được sử dụng với những hàm nghĩa đa dạng hơn(14). Xét tổng thể, khái
niệm “quản trị” đề cập đến “các nguyên tắc ra quyết định tập thể trong những
bối cảnh đa dạng chủ thể hoặc tổ chức và không tồn tại một hệ thống kiểm soát
chính thức nhằm chi phối các điều khoản về mối quan hệ giữa các chủ thể cũng
như tổ chức”(15). Các hệ thống quản trị có bốn đặc điểm chính
yếu sau đây:
(i) Tính chất lai ghép - hệ thống quản trị tích hợp các hệ thống
hành chính với các cơ chế thị trường và mạng lưới các chủ thể xã hội và phi lợi
nhuận. Các hình thức, quy định, nguyên tắc quan hệ mới sẽ thu hẹp và làm mờ đi
ranh giới giữa khu vực công và khu vực tư, hay giữa nhà nước và xã hội.
(ii) Hoạt động quản trị có tính liên quốc gia và đa thẩm quyền - các
khuôn mẫu và mô thức quản trị bao gồm các thể chế và con người ở tất cả các cấp
độ chính quyền cũng như các lĩnh vực chính sách khác nhau và không bị giới hạn
bởi biên giới lãnh thổ địa phương hay quốc gia.
(iii) Sự đa dạng các chủ thể - quá trình ra quyết định tập thể được
đặc trưng bởi sự tham gia của nhiều chủ thể, cả trong và ngoài khu vực công. Do
đó, không chỉ các lợi ích công mà các lợi ích đa dạng cũng có vai trò ngày càng
chủ động và tích cực trong quy trình hoạch định và thực thi chính sách.
(iv) Quan hệ đối tác và hợp tác dựa trên các mạng lưới kết nối đa
chủ thể. Thay vì các mối quan hệ khép kín theo chiều dọc trong mô hình quản lý
truyền thống, các chủ thể đa dạng trong mạng lưới quản trị được liên kết với
nhau theo chiều ngang, đem đến sự bình đẳng cho các chủ thể. Hàng hóa và dịch
vụ công được cung cấp bởi mạng lưới các bên liên quan, gồm cả cơ quan chính
quyền cũng như các doanh nghiệp tư nhân hay tổ chức xã hội và phi lợi
nhuận.
Điểm then chốt nhất là tư duy quản trị công hiện đại mở rộng và
coi trọng cả vai trò của các chủ thể ngoài nhà nước, chứ không chỉ đề cập đến
vai trò của chính quyền như là chủ thể duy nhất trong việc giải quyết các vấn
đề chung của cộng đồng. Nhấn mạnh tính chất đa chủ thể, đa trung tâm và nhiều
cấp độ, các lý thuyết về quản trị công ngày càng coi trọng nhu cầu và năng lực
của các chủ thể ngoài nhà nước, nhấn mạnh sự phân quyền, phi tập trung, khả
năng tự tổ chức và tự chèo lái của các chủ thể đa dạng. Tư duy quản trị đề cao
nhu cầu hợp tác giữa chủ thể công và các chủ thể tư nhân, chủ thể xã hội và phi
lợi nhuận, hướng đến thỏa mãn các mong đợi của số đông người dân, chứ không chỉ
nhằm đạt được hiệu lực hay hiệu quả trong thực thi chính sách. Với tư duy quản
trị, các nhà lãnh đạo có thêm mạng lưới kết nối đa chủ thể để kết hợp với hệ
thống quyền lực hành chính và các động lực thị trường trong việc giải quyết các
vấn đề chung của cộng đồng.
3. Xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại
Trong thế giới đương đại, hoạt động quản trị có thể diễn ra ở
nhiều cấp độ khác nhau(16). Tại nhiều nước Âu -
Mỹ, quản trị địa phương hàm ý các hình thức “tự quản”, vốn gắn với các đơn vị
chính quyền cơ sở, kết hợp với các tổ chức tư nhân, tổ chức cộng đồng tự quản,
tổ chức xã hội để cùng giải quyết các vấn đề dân sinh hàng ngày. Ở cấp độ khu
vực hoặc toàn cầu, quản trị các vấn đề liên quốc gia đề cập đến các cấu trúc
quyền lực có chức năng thiết lập nguyên tắc, kiến tạo sự hợp tác và giải quyết
các vấn đề xảy ra giữa các quốc gia. Chủ thể tham gia vào mạng lưới quản trị
khu vực hoặc toàn cầu là các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức xã hội khu vực hay toàn cầu, cũng như các tập đoàn quốc
tế. Đặc điểm quan trọng nhất với các cấu trúc quản trị ở cấp độ khu vực hay
toàn cầu là không tồn tại một chủ thể quyền lực tối cao như trong các cấu trúc
quản trị ở phạm vi quốc gia.
Khái niệm “quản trị quốc gia” đề cập đến các hoạt động đối nội
và đối ngoại của một đơn vị hết sức căn bản là “quốc gia” hay “đất nước”(17). Quản trị quốc gia
hàm ý các hệ thống kinh tế - chính trị trong những không gian lãnh thổ có chủ
quyền và quyền lực được phân bố cho các chủ thể cả trong và ngoài nhà nước. Nói
cách khác, hoạt động quản trị quốc gia là việc thực thi quyền lực chính trị,
kinh tế, và hành chính để giải quyết các vấn đề ở mọi cấp độ, nhằm “chèo lái”
con thuyền đất nước đến mục tiêu chung.
Cụ thể hơn, hệ thống quản trị quốc gia bao gồm các cơ chế, quá
trình và thể chế, qua đó công dân và các nhóm xã hội khớp nối các lợi ích đa
dạng, thực thi các quyền pháp lý của họ, hoàn thành bổn phận của họ, điều hòa
sự khác biệt cả về quan điểm và lợi ích giữa họ.
Tại các nước đang phát triển, đặc biệt là với các quốc gia Đông
Á, quản trị quốc gia cũng có thể được dùng hoán đổi với quản trị nhà nước, vốn
là một tập hợp các thành tố đa dạng, chứ không chỉ đề cập đến chính quyền như ở
các nước phương Tây. Khái niệm “quản trị nhà nước” nhấn mạnh và phản ánh vai
trò trung tâm của các thiết chế nhà nước tại những cộng đồng mà các thiết chế
ngoài nhà nước chưa phát triển(18).
Tùy thuộc vào trình độ phát triển cũng như đặc thù bối cảnh, mỗi
quốc gia có thể theo đuổi những triết lý và mô hình khác nhau trong việc xây
dựng nền quản trị quốc gia. Lịch sử thế giới cho thấy, các nền quản trị dân chủ
với đặc trưng phân tán quyền lực có thể thành công với các quốc gia phương Tây.
Tuy nhiên, sự phát triển thần kỳ từ nửa sau thế kỷ XX tại nhiều quốc gia khu
vực Đông Á lại luôn gắn liền với các mô hình tập trung quyền lực. Thực tế này
chỉ ra rằng không thể coi một mô hình quản trị quốc gia thành công nào đó là
mẫu hình phổ quát để có thể áp dụng đại trà(19). Do đó, cũng sẽ không
thể có câu trả lời duy nhất cho câu hỏi: thế nào là nền quản trị quốc gia hiện
đại và hiệu quả? Tính chất hiện đại và hiệu quả của nền quản trị luôn phải gắn
với những bối cảnh quốc gia cụ thể.
Cũng vì thế, từ cuối những năm 1990 trở lại đây, hướng tiếp cận
“quản trị tốt” trở thành một lựa chọn cho việc định hướng xây dựng các nền quản
trị công tại các quốc gia đang phát triển(20). Nền quản trị tốt đòi
hỏi phải có các nhà lãnh đạo chính trị có thể thúc đẩy các tầm nhìn chiến lược
và sự đồng thuận rộng rãi đối với các chính sách và quy trình cần thiết để
hướng đến hòa bình, sự ổn định và phát triển. Cụ thể hơn, một nền quản trị
“tốt” quốc gia cần thỏa mãn các tiêu chí căn bản như: i) vai trò tối cao của
pháp luật; ii) hệ thống thể chế công có hiệu lực; iii) coi trọng sự minh bạch
và trách nhiệm giải trình trong quản lý công; iv) tôn trọng nhân quyền; v) đề
cao sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến cuộc
sống của họ.
Viễn kiến đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045
đã chạm đến khát vọng của quảng đại quần chúng nhân dân Việt Nam. Để vượt qua
thách thức hiện thực hóa khát vọng, chúng ta đang đứng trước áp lực phải đổi
mới phương thức “chèo lái, điều khiển, dẫn dắt” con thuyền đất nước để có thể
huy động được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng xã hội cho mục tiêu quốc gia
phát triển. Cụ thể hơn, đó là tiến trình tiếp tục đổi mới hệ thống quản trị
quốc gia (hệ thống chính trị và quản lý công) theo hướng hiện đại.
Đại hội XIII của Đảng xác định: tiếp tục đổi mới nền quản trị
quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả và coi đây là một trong những nhiệm vụ
đột phá chiến lược. Gần đây, vai trò ngày càng tích cực của các chủ thể ngoài
nhà nước trong các quá trình kinh tế - xã hội khiến cho tư duy “quản lý” truyền
thống, vốn gắn với vai trò kiểm soát của chính quyền trở nên không còn thực sự
phù hợp trong nhiều tình huống. Do đó, sự xuất hiện của khái niệm “quản trị
quốc gia” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là phù hợp với xu thế chung, bổ
sung chứ không phủ định các lý thuyết và mô hình quản lý truyền thống.
Cũng bởi thế, để có thể từng bước xây dựng được “nền quản trị
quốc gia hiện đại và hiệu quả”, hướng đến hiện thực hóa khát vọng phát triển
đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao vào năm 2045, Đảng
ta và giới nghiên cứu lý luận cần phải giải quyết được hai vấn đề cấp bách
trước mắt: (i) thứ nhất, chúng ta phải định nghĩa được khái niệm “quản trị
quốc gia” gắn với truyền thống và bối cảnh thực tế Việt Nam; và (ii) thứ hai, phải xây
dựng được lý thuyết và mô hình quản trị quốc gia, vừa đón được xu hướng vận
động của thế giới, vừa dung hòa được với những đặc thù truyền thống và hiện tại
của Việt Nam.
(Nguồn: lyluanchinhtri.vn)
_________________________
(1) Xem ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2021.
(2)
https://zingnews.vn/can-gi-de-duoc-coi-la-mot-nuoc-phat-trien-post1126509.html.
(3), (14), (15) Xem: Kjaer A. M:
Governance, Polity, 2004; Chotray, V., & Stoker, Gerry: Governance theory
and practice: A cross-disciplinary approach, Basingstoke [England], New York: Palgrave
Macmillan, 2009; Osborne, S.: The new public governance: Emerging perspectives
on the theory and practice of public governance, London, New York: Routledge,
2010; Katsamunska, P.: The concept of governance and public governance
theories, Economic Alternatives, Issue 2, 2016.
(4) Morgan, F. D; Ingle,
D. M; and Shinn, W. C.: New public leadership: making a different from
where we sit, New York: Routledge, 2019.
(5) Kingsbury, D;
Remenyi, J; McKay, J; Hunt, J.: Key issues in
development, New York: Palgrave MacMillan, 2004, tr.22.
(6) UNDP: Human
Development Report, 2020.
(7) MPI and World
Bank: Vietnam 2035: Toward Prosperity, Creativity, Equity, and
Democracy, Country Report, 2016.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, tr.85-86.
(9)
http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/34515102-nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-sau-bch-tu-khoa-xii-mot-so-van-de-ve-tiep-tuc-doi-moi-sap-xep-to-chuc-bo-may-cua-he-thong-chinh-tri-tinh-gon-hoat-dong-hieu-luc-hieu-qua.html.
(10) Shafritz, J.,
Russell, E. W., & Borick, Christopher P.: Introducing public
administration (8th ed.), New York: Pearson
Longman, 2013, tr.6-22.
(11), (12), (13) Xem: Hood, C.: The “new public
management” in the 1980s: Variations on a theme. Accounting, Organizations and
Society, 20 (23), 1995, tr.93,; Morgan, D., & Cook, Brian
J.: New public governance: A regime-centered perspective,
Armonk, New York: M.E.
Sharpe, 2014, tr.5.
(16) Krahmann, E: National, regional,
and global governance: one phenomenon or many? Global Governance,
Vol.9, No.3, 2003, tr.323-346; Woods, N.: “The global governance complex”
trong, Held, D và McGrew: “Governing globalization”, Polity Press, 2004.
(17), (19) Xem: Krahmann, E.,
tài liệu đã dẫn, 2003; United Nations: World economic and social survey
2014/15, Report, 2016.
(18) Huang, X.: Politics
in Pacific Asia: An introduction (Comparative government and
politics), Basingstoke, New York: Palgrave Macmillan, 2009.
(20) Xem: Bo
Rothstain: Good Governance, trong “The Oxford Handbook of Governance”,
Orxford University Press, New York, 2012; United Nations: General Assembly,
Report of the Secretary-General entitled “We the peoples: the role of the
United Nations in the twenty-first century”, 2000; XU Runya, SUN Qigui, SI Wei:
The third wave of public administration: the new public governance, Canadian
Social Science, Vol.11, No.7, 2015, tr.11-21.