Chủ nhật, ngày 26/12/2021, 10:24

Đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng

VŨ THANH SƠN
Ban Tổ chức Trung ương

(GDLL) - Trải qua các chặng đường cách mạng, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo được vị thế và niềm tin của nhân dân, đồng thời cũng để lại những kinh nghiệm quý cần được tiếp tục giữ gìn và phát huy. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bài viết nêu lên những định hướng cơ bản nhằm đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Từ khóa: Đại hội lần thứ XIII; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới nội dung, phương pháp.


Hội nghị Trung ương 4 Khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Ảnh: dangcongsan.vn

Đặt vấn đề

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19 - 5 - 2018, của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ khẳng định quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng quốc tế hoá nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Đây cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hoà bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau. Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng.

1. Yêu cầu, mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đóng vai trò tích cực, hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài. Cán bộ không chỉ nắm vững chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý mà còn có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”[1]. Người nhấn mạnh: “Cán bộ là gốc của mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là việc gốc của Đảng”; “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.

Xuyên suốt chặng đường cách mạng đầy gian nan, vất vả nhưng cũng rất hào hùng, oanh liệt của Đảng và nhân dân, Đảng luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nhiều hội nghị Trung ương trực tiếp bàn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Bên cạnh đó, Đảng còn quan tâm đến việc kiện toàn hệ thống các trường cùng nội dung và phương pháp nhằm mục đích chuẩn hóa việc đào tạo cán bộ theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện. Yêu cầu đặt ra là mỗi cán bộ, đảng viên phải được đào tạo đủ năng lực và bản lĩnh để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đề ra nhiệm vụ “đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học”[2]. Trên cơ sở đó, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hàng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực, gắn với sự vận động thực tiễn khách quan, khả năng nâng cao năng lực, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên trong xử lý các vấn đề thực tiễn dựa trên cơ sở khoa học, thực chứng, chứ không dựa vào kinh nghiệm, cảm tính.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị đạt được những kết quả nhất định, thể hiện sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ ở các cấp từ cơ sở đến Trung ương. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều yếu kém, hạn chế. Cụ thể, nội dung về lý luận chính trị chưa đáp ứng yêu cầu “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới”[3].

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặt ra yêu cầu: “đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”[4].

Đây là yêu cầu có tầm quan trọng đặc biệt để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

2. Đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp tình hình mới

Kết hợp đào tạo cơ bản trong trường lớp với rèn luyện qua thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị, lý tưởng và nhân sinh quan cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên nâng cao năng lực công tác thông qua việc đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Cụ thể tập trung mạnh vào những hình thức sau:

Một là, tổ chức linh hoạt hình thức đào tạo tập trung và phi tập trung, trong đó tăng tỷ lệ đào tạo lý luận chính trị tập trung, giảm dần đào tạo phi tập trung; tăng cường mở rộng hình thức bồi dưỡng cán bộ, đảng viên các cấp trong hệ thống chính trị và xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Hai là, mở rộng hình thức bồi dưỡng như bồi dưỡng chức danh, bồi dưỡng nghiệp vụ xây dựng Đảng và chính quyền, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, xử lý tình huống. Đẩy mạnh hình thức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ đương chức và quy hoạch lãnh đạo, quản lý các cấp[5].

Ba là, thể chế hình thức online bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Hình thức online góp phần tạo thêm tiện ích cho cán bộ đi bồi dưỡng như mở rộng quy mô, đối tượng tham gia, ít bị gián đoạn công việc, tiết kiệm kinh phí, thời gian đi lại. Hơn nữa, việc giám sát sĩ số và đánh giá kết quả bằng công nghệ bảo đảm tính khách quan, minh bạch. Trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19, hình thức học online có ý nghĩa thiết thực, hiệu quả.

Bốn là, nâng cao chất lượng hình thức đào tạo, bồi dưỡng nước ngoài theo chương trình, nội dung, hình thức thích hợp với đối tượng và nhu cầu thực tế, theo khung năng lực, vị trí việc làm khi tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát an toàn. Điều chỉnh đối tượng, tiêu chuẩn để tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên đang trực tiếp làm nghiệp vụ chuyên môn,đội ngũ trẻ và làm việc ở cơ sở tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài gắn với vị trí việc làm của họ.

3. Định hướng đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng bám sát thực tiễn và yêu cầu năng lực của cán bộ

Việc đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phải xuất phát từ nhu cầu tri thức, kỹ năng mà cán bộ, đảng viên đang thiếu, đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm và chức vụ đảm nhận. Những nội dung đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm bù đắp khoảng trống kiến thức và kỹ năng để cán bộ, đảng viên làm việc hiệu quả, tinh thông hơn. Cụ thể như sau:

Một là, việc đổi mới nội dung cần bảo đảm giữ vững các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận biện chứng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và quan điểm của Đảng, gắn với thực hiện việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Hai là, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị gắn với nguyên tắc học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Hồ Chí Minh đã dạy: “lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”, “thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Việc nắm bắt các quy luật khách quan cho phép cán bộ đưa ra những quyết định phù hợp đáp ứng tốt vấn đề thực tiễn. Ngược lại, việc tổng kết thực tiễn chính xác sẽ góp phần làm giàu thêm cơ sở lý luận.

Ba là, nội dung đổi mới đào tạo, bồi dưỡng phải phù hợp, linh hoạt đáp ứng nhu cầu người học về tri thức chuyên môn, lãnh đạo học, kỹ năng xử lý tính huống chính trị thực tiễn. Khung chương trình bảo đảm yêu cầu về tính mở và lựa chọn. Theo lý luận về phương pháp giảng dạy hiện đại, chương trình đào tạo cần phải thiết kế mở để có thể điều chỉnh môn học cho phù hợp với từng đối tượng học và trình độ người học, kỳ vọng tri thức của người học đối với hoạt động thực tiễn.

Bốn là, chú trọng bổ sung thêm các nội dung thiết thực theo yêu cầu tình hình mới: (i) rèn luyện các giá trị đạo đức của người lãnh đạo, quản lý trong tình hình mới; (ii) nội dung cụ thể của khoa học chính trị và lãnh đạo học cho phù hợp với từng chức danh lãnh đạo, quản lý trong các lĩnh vực công tác; (iii) tăng lượng kiến thức về tư duy và tầm nhìn chiến lược, nhận thức và giải pháp xử lý các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn và điều hành công việc; (iv) năng lực và phương pháp tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận.

Năm là, xây dựng các chương trình bồi dưỡng chuyên biệt trong và ngoài nước cho từng chức danh, cấp lãnh đạo và lĩnh vực công tác. Đối tượng cán bộ, đảng viên cần được phân nhóm theo chức danh, lĩnh vực công tác, cấp hành chính để thuận tiện cho việc tổ chức lớp và người học có cơ hội tiếp thu tri thức, kỹ năng chuyên sâu để vận dụng thích hợp vào công tác của mình, góp phần tăng hiệu quả các khóa đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đương chức và quy hoạch theo chức danh, gắn lý thuyết với thực hành, kỹ năng xử lý thực tiễn đối với từng chức danh, ở từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực công tác.

4. Tích cực vận dụng rộng rãi phương pháp dạy và học hiện đại

Trong khoa học giáo dục tiên tiến, phương pháp dạy và học hiện đại là thay thế tiếp cận “giảng viên làm trung tâm” bằng “học viên làm trung tâm”. Phương pháp mới đã được nhiều cường quốc giáo dục trên thế giới áp dụng từ lâu và đạt được những thành công đáng kể.

Trong bối cảnh đổi mới của nền giáo dục nói chung và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị Việt Nam nói riêng, việc đổi mới giáo dục cần tiến hành đồng bộ trên 3 trụ cột căn bản: lấy học viên làm trung tâm, giảng viên làm động lực và nhà trường làm nền tảng”.

Phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi người học nâng cao tính chủ động, sáng tạo. Người học chủ động hơn trong việc tích lũy tri thức và hiện đại phù hợp, tích cực hơn trong việc thể hiện năng lực của mình thông qua các nội dung học chuyên sâu. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên cần chủ động tích lũy tri thức, kỹ năng cần thiết để phục vụ hiệu quả nhất cho vị trí công tác, xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn. Học viên phải thay đổi phương pháp, cách thức tương tác chủ động với giáo viên và nhóm học tập. Mỗi học viên chủ động, tự giác trong tìm tòi nghiên cứu, học tập, thực hiện các loại bài tập, nhiệm vụ học tập được thiết kế trong chương trình theo yêu cầu của giáo viên, cơ sở đào tạo.

Giảng viên đóng vai trò động lực, “xúc tác” nêu vấn đề, cung cấp “phương pháp luận” cho học viên tự giải quyết vấn đề thông qua tự nghiên cứu, sáng tạo. Cần phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục, tăng cường phản biện, tranh luận giữa thầy trò và giữa các bạn học để tìm ra chân lý, phương pháp giải quyết vấn đề tối ưu nhất. Phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải có tri thức sâu về chuyên ngành, bao quát tri thức tổng hợp, đủ năng lực cung cấp nền tảng tri thức khoa học và giàu kinh nghiệm xử lý tình huống thực tiễn nhằm thỏa mãn sự cầu thị của người học. Yêu cầu giáo viên đứng lớp phải có kinh nghiệm giảng dạy sư phạm theo phương pháp hiện đại và trải qua thực tế cần thiết. Giảng viên nắm vững nhiều kỹ thuật để tạo hiệu ứng cao cho môi trường học tập như trao đổi, thảo luận nhóm, nghiên cứu điển hình, đóng vai, ma trận tư duy, cây vấn đề, phản biện, thuyết trình…

Trước áp lực đổi mới và biến đổi nhanh chóng của tri thức gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cũng cần học tập, nghiên cứu không ngừng để tránh lạc hậu với thời đại và đặc biệt tránh lạc hậu hơn học viên vì thực tế nhiều học viên có chức vụ, trình độ cao, trải nghiệm công tác, kinh nghiệm thực tiễn phong phú.

Các công cụ hỗ trợ cho giảng viên nâng cao trình độ như ngoại ngữ, tin học cần được trau dồi thường xuyên. Khi thành thạo ngoại ngữ, giảng viên sẽ tiếp cận được kho thông tin, tri thức rộng lớn trên toàn cầu, giúp ích cho việc nghiên cứu và tích lũy tri thức cho việc giảng dạy lý luận chính trị.

5. Bảo đảm đầy đủ điều kiện cho đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy hiện đại

Việc vận dụng phương pháp dạy và học hiện đại thành công khi và chỉ khi những điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết được bảo đảm đầy đủ. Trước hết, đội ngũ giảng viên phải được bồi dưỡng các phương pháp sư phạm, kỹ thuật giảng dạy theo phương pháp mới. Đồng thời, cũng cần thay đổi cách thức biên soạn nội dung chương trình, chuẩn bị tài liệu phục vụ nghiên cứu, sử dụng công nghệ thông tin, các phần mềm phục vụ phương pháp dạy hiện đại.

Cơ sở đào tạo với vai trò trụ cột “nhà trường làm nền tảng” cần ban hành các thể chế phù hợp với những tác nghiệp sử dụng phương pháp dạy và học hiện đại. Trong đó, nhà trường được trang bị đồng bộ cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật cho việc dạy và học hiện đại như giảng đường thông minh, đa phương tiện, phòng học nhiều quy mô phục vụ trao đổi nhóm lớn, nhóm trọng tâm; học liệu, mạng lưới thư viện, hệ thống thông tin, dữ liệu, internet, wifi. Việc xây dụng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức lớp và công tác kiểm tra đánh giá cũng sẽ có nhiều thay đổi tương ứng.

Trong quá trình dạy và học hiện đại, cần đánh giá cả giảng viên lẫn học viên. Đối với học viên, việc đánh giá chú trọng vào các tiêu chí: (i) kết quả học tập các môn học (chuyên môn); (ii) ý thức tham gia các hoạt động thực tế, đóng góp vào trao đổi, thảo luận nhóm; (iii) rèn luyện tác phong, đạo đức, kỷ luật. Đối với giảng viên, việc đánh giá tập trung vào chất lượng bài giảng, năng lực tổ chức thảo luận, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề nghiên cứu; kỹ thuật sư phạm, truyền đạt nội dung bài giảng.

Một trong những chức năng quản lý đào tạo là hoạt động kiểm tra, giám sát để duy trì chất lượng và kỷ cương. Cần thiết xây dựng chế tài nghiêm minh để xử lý những sai phạm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Yêu cầu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, thực hiện có nền nếp, đúng thực chất, tránh hình thức, chạy theo thành tích.

Kết luận

Sinh mệnh của Đảng, tương lai của dân tộc phụ thuộc vào việc Đảng có quan tâm đúng mức đến sự nghiệp “trồng người” hay không. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì vấn đề cán bộ càng khẳng định vai trò quyết định. Từ đó, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp “hồng thắm, chuyên sâu”, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một trong những khâu quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Đây là một công tác rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có tính khoa học và nghệ thuật. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quan điểm chỉ đạo của Đại hội lần thứ XIII là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. 

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26 - 5 - 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 4 khóa XII (ngày 30 tháng 10 năm 2016) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Hà Nội.

5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 11.


[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 11, tr.90.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII.

[5] Triển khai hiệu quả Quy định số 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 01 - 2 - 2013 về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được phân thành 4 nhóm như sau: Đối tượng 1: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đối tượng 2: Cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (ngoài đối tượng 1). Đối tượng 3: Cán bộ thuộc diện ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương và tương đương quản lý. Đối tượng 4: Cán bộ thuộc diện ban thường vụ huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh và tương đương quản lý.

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.