Chủ nhật, ngày 26/12/2021, 16:02

Vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XII của Đảng và một số bài học kinh nghiệm

LÊ THỊ THỤC
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là nguyên tắc cao nhất và mục đích thiêng liêng nhất trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu xuyên suốt là Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Bài viết tóm tắt những thành tựu quan trọng của hoạt động đối ngoại Việt Nam trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện thắng lợi đường lối chỉ đạo của Đảng, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong giai đoạn tới, góp phần đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại.

Từ khóa: Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; hoạt động đối ngoại; bài học kinh nghiệm; Đại hội XII.

Việt Nam chủ trì một phiên thảo luận mở của Hội đồng Bảo an, trên cương vị Chủ tịch HĐBA Liên hợp quốc trong tháng 1/2020. Ảnh tư liệu: TTXVN.

1. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam

Vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm trong chỉ đạo đường lối cách mạng. Ngay trong “Chính cương vắn tắt” của Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới thành lập, Nguyễn Ái Quốc đã tuyên bố chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, với phương thức tập hợp lực lượng đúng đắn: “Ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù”[12,tr.18]. Quán triệt chủ trương này trong hoạt động đối ngoại, Đảng ta đã từng bước xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân trong và ngoài nước, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của bạn bè quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Qua thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước cũng như diễn biến tình hình thế giới, mục tiêu bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc ngày càng được thể hiện rõ nét hơn trong hoạt động đối ngoại, với việc liên tục bổ sung và hoàn chỉnh đường lối đối ngoại qua các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là từ khi bắt đầu thời kỳ Đổi mới đất nước năm 1986. Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20/5/1988 của Bộ Chính trị khoá VI về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới (1988) đã khẳng định: “Củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”. Theo tinh thần chỉ đạo này, Đảng ta đã đổi mới đường lối đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ ngoại giao trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, từ đó dần dần xử lý được những đòi hỏi cấp bách của đất nước.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được Đảng ta nêu rõ: “chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”[4,tr.89]. Với chính sách đối ngoại rộng mở đó, Đảng ta khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[4,tr.147]. Kết quả là thời kỳ này, nước ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; khôi phục, mở rộng và thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước lớn, trong đó bước ngoặt quan trọng là việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký kết Hiệp định khung với EU và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong cùng năm 1995.

Tại Đại hội VIII, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế được coi là một bước quan trọng phục vụ cho mục tiêu phát triển của quốc gia - dân tộc Việt Nam, với sự khẳng định: “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”[5,tr.84]. Vấn đề lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được đặt ở vị trí trọng tâm trong đường lối đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội IX: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia”[6,tr.120]. Tiếp nối khẳng định tại Đại hội X: “lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”[7,tr.114], Đại hội XI chỉ rõ cần: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển...; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”[8,tr.235-236]. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc”[9,tr.34] là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất của hoạt động đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực.

Gần đây nhất, Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong thời gian tới là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[10,tr.161-162]. Với sự khẳng định như vậy ngay trong quan điểm chỉ đạo chung của Nghị quyết Đại hội, vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc đã không chỉ giới hạn trong nhiệm vụ đối ngoại của đất nước mà còn được khẳng định là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước.

2. Thực tiễn bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XII của Đảng

Nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016-2021) là giai đoạn thế giới và khu vực chứng kiến những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, đặc biệt là sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc đồng thời tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế trên cơ sở “bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” trong hoạt động đối ngoại của nước ta cũng gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, đến khi kết thúc nhiệm kỳ, những đánh giá tổng quát về thành tựu phát triển đất nước đã cho thấy những kết quả vô cùng đáng tự hào. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khi đánh giá tổng kết nhiệm kỳ khóa XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[2]. Thành tựu to lớn đó có phần đóng góp vô cùng quan trọng của công tác đối ngoại.

Bằng những nỗ lực không ngừng trong hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ vừa qua, công tác đối ngoại đã được triển khai mạnh mẽ, nhất quán và hiệu quả theo đường lối đối ngoại của Đại hội XII. Trên tinh thần chủ động, tích cực, chủ động nắm bắt và tạo dựng được thời cơ, kiên trì và linh hoạt vượt qua những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài, công tác đối ngoại trong nhiệm kỳ qua đã đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần tích cực vào củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thu hút các nguồn lực phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng chung biên giới, các nước trong khu vực, các nước lớn, nước ta đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ ổn định, bền vững thông qua việc tiếp tục củng cố quan hệ với các đối tác ưu tiên, chủ chốt và thúc đẩy các mối quan hệ này đi vào chiều sâu, thực chất. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện với 5 nước, nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược với 2 nước, nâng từ quan hệ Đối tác chiến lược lên Đối tác chiến lược toàn diện với 1 nước[11], nâng tổng số quan hệ Đối tác chiến lược/Đối tác toàn diện lên 30 nước. Với đường lối đối ngoại đúng đắn đó, Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn. Chúng ta đã xử lý tốt các vấn đề tồn tại và phát sinh trong quan hệ với các đối tác chủ chốt, không để ảnh hưởng đến các lợi ích an ninh, phát triển cũng như cục diện quan hệ đối ngoại của quốc gia.

Hoạt động hội nhập quốc tế, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế đã được đẩy mạnh, thu hút thêm nhiều nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Trong nhiệm kỳ đại hội vừa qua, công tác đối ngoại đã thúc đẩy tạo dựng được nhiều khuôn khổ thuận lợi cho việc tham gia và ký kết hai Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới là CPTPP và EVFTA và một FTA quy mô hàng đầu thế giới là RCEP, mang lại những cơ hội to lớn cho đất nước về mở rộng, đa dạng hóa thị trường và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Nhiều hoạt động ngoại giao kinh tế đã được lồng ghép hiệu quả trong các hoạt động đối ngoại cấp cao; góp phần đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, du lịch, khoa học công nghệ, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và địa phương, xử lý thỏa đáng một số vấn đề kinh tế - thương mại nảy sinh trong quan hệ với các nước.

Việt Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trò của đối ngoại đa phương, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng bước phát huy vai trò hòa giải, góp phần vào hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Nước ta đã khẳng định được vai trò ngày càng quan trọng tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM, APEC, Liên Hợp Quốc, G20, WEF và các cơ chế tiểu vùng Mekong; để lại nhiều dấu ấn quan trọng với việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018. Ngay trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Việt Nam cũng đã chủ động, linh hoạt phát huy tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc 2020-2021. Với các cương vị này, nước ta đã vừa tổ chức thành công nhiều hoạt động tạo dấu ấn quan trọng, vừa đề xuất nhiều sáng kiến có ý nghĩa, kịp thời, đáp ứng các mối quan tâm chung trong cộng đồng và được bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Công tác đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ, củng cố môi trường hòa bình, ổn định. Về biên giới trên bộ, chúng ta đã phối hợp triển khai hiệu quả công tác quản lý biên giới và cửa khẩu theo các văn kiện pháp lý, thỏa thuận về biên giới ký kết với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Với kết quả đó, lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước Việt Nam hiện đại, chúng ta đã xây dựng được đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước láng giềng. Về biên giới trên biển, mặc dù tình hình Biển Đông thời gian qua rất phức tạp, chúng ta vẫn kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982; đồng thời duy trì được sự ổn định trong quan hệ song phương với các đối tác. Chúng ta cũng đã xử lý hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh, tích cực triển khai đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao và đấu tranh trên thực địa ở Biển Đông.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác bảo hộ công dân và vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã được triển khai kịp thời, hiệu quả, xử lý tương đối tốt những vấn đề phát sinh liên quan đến công dân Việt Nam tại nước ngoài trong đại dịch COVID-19. Công tác tổ chức các hoạt động quan tâm đến kiều bào và huy động nguồn lực kiều bào cũng được triển khai bài bản, sáng tạo hơn, khuyến khích được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước, khích lệ lòng yêu nước và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ vừa qua đã góp phần to lớn trong thực hiện sự chủ động, kiên quyết đấu tranh với các hành vi, luận điệu xuyên tạc nhằm chống phá và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Bên cạnh đó, công tác đối ngoại cũng phát huy hiệu quả các cơ chế thông tin, đối thoại nhân quyền với các nước phương Tây trên tinh thần bình đẳng, không né tránh; đồng thời chủ động tham gia nhiều lĩnh vực hợp tác quốc tế về quyền con người cả trong khuôn khổ song phương, đa phương và các tổ chức nhân quyền quốc tế nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thu hẹp những sự khác biệt về cách tiếp cận vấn đề.

Về công tác ngoại giao văn hóa và thông tin đối ngoại, nhiều hình thức và nội dung đã được quan tâm đổi mới, từ đó nâng cao được hiệu quả quảng bá về đất nước, về nền văn hóa, con người và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác thông tin đối ngoại cũng đạt được những thành tựu to lớn. Việc chủ động thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước tới cộng đồng quốc tế và kiều bào ở nước ngoài đã tạo thuận lợi cho hàng nghìn phóng viên và cơ quan báo chí quốc tế vào Việt Nam đưa tin, viết bài, góp phần tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam, đồng thời phản bác, ngăn chặn, vô hiệu hóa những luận điệu xuyên tạc về Đảng và Nhà nước ta. Các hình thức tương tác mới, mạng xã hội, ngoại giao số và các hình thức trao đổi trực tuyến đã được tăng cường và sử dụng hiệu quả, đặc biệt là trong thời kỳ đại dịch COVID-19.

Các lĩnh vực công tác đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại quốc phòng và an ninh, đối ngoại nhân dân trong nhiệm kỳ vừa qua cũng liên tục được đẩy mạnh, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của nước ta trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, việc thực hiện Chỉ thị 32 - CT/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về “Tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại đảng trong tình hình mới” ngày càng đi vào chiều sâu, đã mang lại hiệu quả to lớn, thúc đẩy quan hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam với chính đảng các nước ngày càng thực chất hơn, phù hợp hơn với tình hình mới.

Rõ ràng là trong nhiệm kỳ 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng 2016 - 2021, quán triệt nguyên tắc “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi”[9,tr.34], hoạt động đối ngoại đã có những thành quả quan trọng đóng góp to lớn vào thành tựu chung của cả dân tộc.

Nguồn: ajc.hcma.vn

3. Một số bài học kinh nghiệm về bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong tình hình mới thông qua hoạt động đối ngoại

Rà soát lại những kết quả thực tế trong hoạt động đối ngoại thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quan trọng sau đây nhằm tiếp tục phát huy những thành quả đó, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước nói chung, về hoạt động đối ngoại nói riêng trong thời gian tới.

Một là, quán triệt thực hiện nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong xử lý các mối quan hệ lợi ích, linh hoạt lựa chọn ưu tiên hành động trong từng trường hợp cụ thể để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ XHCN là lợi ích sống còn của quốc gia - dân tộc, mang tính bất biến, vĩnh cửu. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, cần linh hoạt đẩy mạnh, ưu tiên thực hiện các biện pháp thúc đẩy lợi ích phát triển là làm cho đất nước giàu mạnh, phồn vinh, hội nhập quốc tế, sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đất nước đổi mới toàn diện, chủ động tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, việc thực hiện lợi ích phát triển sẽ tạo nền tảng bền vững hơn cho việc thực hiện lợi ích sống còn của quốc gia - dân tộc.

Hai là, thực hiện đồng bộ, hài hoà các khía cạnh lợi ích quốc gia - dân tộc, bao gồm lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, trên cơ sở xác định rõ vị trí, vai trò của việc thực hiện các khía cạnh lợi ích trong tổng thể. Cụ thể: lợi ích kinh tế là trung tâm của mọi lợi ích được hình thành từ các quá trình kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; lợi ích chính trị gắn liền với sự ổn định, vững mạnh và sự lãnh đạo, quản lý, vận hành hiệu lực, hiệu quả của thể chế chính trị được xác lập trong Hiến pháp; lợi ích văn hóa góp phần tạo ra những giá trị làm nền tảng tinh thần của xã hội; lợi ích quốc phòng - an ninh, đối ngoại gắn với độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, là cơ sở, nền tảng để bảo vệ và phát huy, phát triển lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.

Ba là, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc phải luôn gắn với bảo đảm lợi ích của các chủ thể chính trị của chế độ, gồm lợi ích của Đảng, của Nhà nước, của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động. Về bản chất, lợi ích của các chủ thể này thống nhất với nhau và là các hợp phần của lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong bối cảnh các thế lực thù địch triển khai thực hiện rất nhiều những sự tuyên truyền, chống phá, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam, làm lu mờ, thậm chí cố gắng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc tiếp tục kiên định, khéo léo trong thực hiện các hoạt động đối ngoại gắn kết lợi ích của các chủ thể chính trị trọng yếu này với lợi ích quốc gia - dân tộc là nội dung cần đặc biệt chú ý.

Bốn là, khéo léo xử lý mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam với lợi ích của các nước lớn và các nước khác. Trong quan hệ quốc tế, các nước lớn luôn cố gắng gia tăng ảnh hưởng và điều chỉnh toan tính lợi ích, dẫn đến sự thay đổi chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Mỗi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, cũng đều có những mục tiêu và đường hướng phát triển khác nhau. Do vậy, đường lối đối ngoại của Việt Nam cần giữ vững phương châm khoa học, linh hoạt điều chỉnh phù hợp với xu thế, nắm bắt thời cơ và xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước khác, đặc biệt là các nước láng giềng. Việc bảo đảm lợi ích của quốc gia - dân tộc là mục tiêu tối thượng, nhưng cũng cần chấp hành nghiêm thông lệ quốc tế, các nguyên tắc, định chế của các tổ chức quốc tế trong quan hệ đối ngoại; tránh những tư tưởng, hành động vì lợi ích cục bộ, dân tộc chủ nghĩa, dân tộc cực đoan bất chấp luật pháp quốc tế. Sự khéo léo, linh hoạt như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi để kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Năm là, đổi mới tư duy đối ngoại, cụ thể hóa tư duy của Đảng về đối tác, đối tượng trong tình hình mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn làm phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết lợi dụng xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế để chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều hình thức khác nhau, như chiến lược “diễn biến hòa bình”, bất tuân dân sự, bạo loạn lật đổ, v.v. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động đối ngoại của nước ta hiện nay là phải xác định rõ sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau rất linh hoạt giữa “đối tác” và “đối tượng” để có biện pháp xử lý đúng đắn theo phương châm: “... Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”[1]. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đấu tranh hiệu quả hơn với những âm mưu và hành động xâm hại đến lợi ích hợp pháp của dân tộc ta; đấu tranh chống những thủ đoạn kích động, chia rẽ Việt Nam với cộng đồng quốc tế và khu vực; chống tư tưởng cực đoan, dân tộc chủ nghĩa.

Với sự khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất

nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước, như tuyên bố của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII, vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, là mục tiêu cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và kế thừa những kinh nghiệm thực tiễn trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại của Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy được những thành tựu to lớn đó, tạo cơ sở vững chắc cho việc phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban Chấp hành trung ương: Nghị quyết 28 - NQ/TW về chiến lược bảo vệ T Quốc trong tình hình mới, Hà Nội, ban hành ngày 25/10/2013

[2] Ban Chấp hành trung ương (2000) Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Báo Chính phủ điện tử, https.// bao chinh phu.vn

[3] Bùi Thanh Sơn (2021), “Tổng kết công tác đối ngoại nhiệm kỳ Đại hội Đảng XII và những định hướng giai đoạn mới”, Báo điện tử Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 19/02/2021, https://baochinhphu.vn

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

[11] Đối tác toàn diện với 5 nước gồm; Myanmar, Canada (2017), Hungary (2018), Brunei và Hà Lan (2019). Đối tác chiến lược với 2 nước gồm Australia (2018) và New Zealand (2020). Đối tác chiến lược toàn diện với 1 nước gồm Ấn Độ (2016)

[12] Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6.

[13] Nguyễn Cơ Thạch (1990), “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”, Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 1.

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.