Chủ nhật, ngày 26/12/2021, 16:22

Những điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về xây dựng “Thế trận lòng dân”

NGUYỄN PHƯƠNG HẢI
Đại học Hải Phòng

(GDLL) - Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là một trong những nhận thức mới, tư duy mới về nền quốc phòng nước ta tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Bài viết trình bày những điểm mới về xây dựng “thế trận lòng dân” tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, rút ra một số kinh nghiệm của Đảng về xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân” phù hợp với tình hình đất nước trong giai đoạn mới.

Từ khóa:Đại hội XIII; xây dựng thế trận lòng dân; giai đoạn hiện nay.

Cuốn sách "Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng"

Đặt vấn đề

“Thế trận lòng dân”là loại hình thế trận đặc biệt, là một trong những mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia - dân tộc và được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là nền tảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, quyết địnhsự hưng thịnh hay suy vongcủa quốcgia - dân tộc, là thành lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là cội nguồnsức mạnh sâu xa xuất phát từ bản sắc văn hóa Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân phụ thuộc rất lớn vào “thế trận lòng dân”. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để huy động mọi nguồn lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, là cơ sở tạo dựng niềm tin cho mọi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng xả thân để thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

1. Chủ trương của Đảng về xây dựng “thế trận lòng dân” tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII

1.1. Thế trận lòng dân và xây dựng “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân

 Thế trận lòng dân là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí, niềm tin, quyết tâm của toàn dân tộc, được khơi dậy, quy tụ và phát huy, tạo nền tảng chính trị - tinh thn vững chắc, cho phép huy động sức mạnh tng hợp ca c dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, quân sự, quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bo vệ T quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Yếu tố cấu thành “thế trận lòng dân” nhng yếu tố bên trong quyết định sự tồn tại, phát triển của “thế trận lòng dân”, các yếu tố đó bao gồm: Một là, lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, đồng lòng, ý thức tự lực, tự cường của nhân dân trong sự nghiệp bo vệ Tổ quốc; Hai là,nhận thức của nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Ba là, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; Bốn là, tinh thn trách nhiệm của nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; Năm là, ý chí quyết tâm của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ T quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thế trận lòng dân được biểu hiện tập trung toàn dân đoàn kết thành một khối vững chắc xung quanh Đảng và Chính phủ, cùng hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ; giữ vững niềm tin, ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chống phá của các thể lực thù địch, vì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân

Xây dựng “thế trận lòng dân” là quá trình bao gồm tổng thể các hoạt động của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đ khơi dậy, quy tụ, phát huy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí, niềm tin, quyết tâm của toàn dân tộc, tạo thành nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 đã khẳng định: “Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên nền tảng “thế trận lòng dân”, biểu hiện ở lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, sự đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vào khả năng và sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh vô địch của nhân dân và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[1, tr.49].

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây dựng tiềm lực mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị - tinh thần; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và hệ thống chính trị vững mạnh, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.

Cơ sở quan trọng nhất tạo nên sức mạnh quốc phòng Việt Nam là sức mạnh chính trị - tinh thần, sức mạnh của lòng dân, khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, quân với dân; sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, đoàn kết, thống nhất của Đảng.

1.2. Những điểm mới về xây dựng “thế trận lòng dân” tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng “thế trận lòng dân”

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4 - 2006), lần đầu tiên Đảng sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt”[2, tr.109]. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI (1 - 2011), chỉ rõ: “Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”[3, tr.234]. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XII (1 - 2016), một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”[4, tr.149] trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (1 - 2021), Đảng xác định: “Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”[5, tr.157]. So với các kỳ đại hội trước của Đảng, “thế trận lòng dân” được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Đây không đơn thuần là sự sắp xếp cơ học mà đó là sự khẳng định, bổ sung, có sự phát triển mới về tư duy của Đảng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc:

Thứ nhất, xuất phát từ truyền thống dân tộc, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, hiếm có dân tộc nào trên thế giới mà sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc lại phải thường xuyên chống lại những kẻ thù hung bạo như Việt Nam. Nguyên nhân cơ bản giúp dân tộc Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù có tiềm lực quân sự lớn mạnh hơn rất nhiều lần là bởi luôn ý thức rất rõ vai trò to lớn, yếu tố quyết định thắng lợi là sức mạnh của“lòng dân”. 

Nhà Trần (thế kỷ XIII) với tinh thần “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”; “Tận dân vi binh, phụ tử chi binh”. Trước kẻ thù hung bạo (1 - 1285), Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông xuống chiếu mở một cuộc hội nghị hết sức quan trọng ở điện Diên Hồng (Hội nghị Diên Hồng).Tham dự hội nghị này là các vị bô lão, đại diện cho nhân dân cả nước. Vì vậy, cả 3 lần đều đánh thắng quân Mông - Nguyên, một đế chế hung bạo và hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.

Ngược lại lịch sử cũng cho thấy bài học thất bại vì không biết phát huy thế trận lòng dân. Nhà Hồ, dù cho cha con Hồ Quý Ly đã xây dựng đội quân tinh nhuệ, được đánh giá là mạnh so với các thời kỳ trước đó, song, đội quân đông đảo đó nhanh chóng bị thất bại. Nhà Hồ sụp đổ chỉ sau 7 năm thành lập. Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của vua Hồ Quý Ly, có nhiều đóng góp về khoa học quân sự và là chỉ huy chính của quân đội trong kháng chiến chống quân Minh (1406 - 1407), đã nói với vua cha Hồ Quý Ly rằng:“Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ: Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử. V.I.Lênin khẳng định: “Cuộc cách mạng chỉ thực sự là một cuộc cách mạng khi nào hàng chục triệu người đồng lòng hăng hái nổi dậy”[7, tr.613].

Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhân dân vào thực tiễn Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của “lòng dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo người, trong xã hội muốn thành công phải có 3 điều kiện là: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Người phân tích: Ba điều kiện này đều quan trọng, nhưng quan trọng nhất là nhân hòa, nghĩa là mọi người đều nhất trí, đồng lòng. Từ đó Người khẳng định một chân lý: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”[6, tr.89].

Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ giữa “thế trận lòng dân” với thế trận quốc phòng toàn dân thế trận an ninh nhân dân

Thế trận lòng dân là yếu tố nền tảng, quyết định thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm 3 yếu tố: Xây dựng tiềm lực, xây dựng lực lượng và xây dựng thế quốc phòng toàn dân, trong đó “thế trận lòng dân” là yếu tố quan trọng nhất trong xây dựng thế quốc phòng toàn dân.

Đó là sự kế thừa tư tưởng “người trước, súng sau” của Hồ Chí Minh và được khẳng định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019: “Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên nền tảng “thế trận lòng dân””.

 Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định nội dung xây dựng “thế trận lòng dân” lên một tầm cao mới. Đại hội khẳng định: Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân”[5, tr.157]. Đại hội XIII không chỉ tiếp tục khẳng định vấn đề xây dựng thế trận lòng dân mà còn bổ sung thêm vấn đề “phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân”. Việc khẳng định phải xây dựng, phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân không chỉ phù hợp với vị trí, vai trò của “thế trận lòng dân” mà còn phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Xuất phát từ vị trí, vai trò “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng khẳng định: “Thế trận lòng dân là nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân phụ thuộc rất lớn vào “thế trận lòng dân”. Thế trận lòng dân là mạch nguồn để động viên mọi lực lượng của đất nước cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; là chỗ dựa vững chắc, là niềm tin cho mọi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng xả thân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chỉ có “thế trận lòng dân” vững chắc mới quy tụ được lòng người, quy tụ được lực lượng vật chất và tinh thần, tạo nên sức mạnh to lớn bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nếu không tạo được “thế trận” mà để “lòng dân” ly tán thì đó là nguy cơ mất nước trước họa xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam khẳng định: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng Việt Nam”[1, tr.49].

Xuất phát từ thực trạng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thường xuyên được chú trọng, góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ quan, việc xây dựng “thế trận lòng dân”, nhất là hiện thực hóa các nội dung xây dựng “thế trận lòng dân” còn có mặt hạn chế. Đặc biệt là tác động từ mặt trái kinh tế thị trường; những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, quản lý điều hành xã hội của Nhà nước; những sai lệch về chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, trái với truyền thống của dân tộc, và giá trị con người Việt Nam, ảnh hưởng đến sự đồng thuận, gắn kết trong xã hội, làm cho một bộ phận nhân dân thiếu niềm tin vào Đảng, Nhà nước, và chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân”.

Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực, trong nước và mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, bên cạnh những thuận lợi như: Xu hướng hòa bình và hợp tác giữ vai trò chủ đạo đã tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ, hợp tác trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân; tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong phát triển đất nước; nâng cao trình độ nguồn nhân lực,... cũng đặt ra không ít thách thức đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đáng chú ý là tình hình thế giới, khu vực, nhất là tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp; các vấn đề an ninh phi truyền thống như: Xung đột sắc tộc, tôn giáo, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai, dịch bệnh; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với Việt Nam bằng âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”... Bởi vậy, để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, vấn đề quan trọng là phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của đất nước, điều này đồng nghĩa với phải xây dựng “thế trận lòng dân” lên một tầm cao mới đó là:“Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân””.

2.Một sốkinh nghiệm của Đảng về xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân”

“Thế trận lòng dân” là chủ trương lớn của Đảng, là nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn của dân tộc và của cách mạng, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại cho cách mạng Việt Nam. Để xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, cần quan tâm giải quyết tốt một số vấn đề sau đây:

Một là, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương cần kịp thời đề ra và triển khai thực hiện tốt những chủ trương, chính sách “hợp lòng dân” nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là ở những vùng đang còn gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách mạng trước đây, vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo; xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, đi đôi với việc bảo đảm cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là thu hẹp dần khoảng cách phân hóa giàu - nghèo giữa các vùng, miền trên cả nước.

Hai là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đồng thời, quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, tạo nên sự đồng thuận xã hội rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được “thụ hưởng” mọi thành quả lao động mà chính mình đã tạo ra.

Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, nhất là chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là “đầy tớ” trung thành của nhân dân.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tăng cường cải cách hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, nhất là phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là “công bộc” của dân.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, nhất là trong bộ máy Đảng và Nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm trong sạch bộ máy, trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm khắc, dứt điểm các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng gây hậu quả lớn nhằm củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc học tập, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội; an ninh, quốc phòng; Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn..., quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức; nâng cao chất lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

Ba là, coi trọng nâng cao chất lượng công tác truyên tuyền khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc, niềm tin, trách nhiệm của nhân dân với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, tăng cường củng cố mối quan hệ phối hợp quân đội nhân dân và công an nhân dân đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực nhằm phục vụ nhân dân, gắn bó với dân, trọng dân, gần dân... Tăng cường phối hợp xây dựng quân đội và công an chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh toàn diện về mọi mặt (chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức). Đây chính là chỗ dựa vững chắc của Đảng, góp phần giúp Đảng nâng cao sức chiến đấu trong thời kỳ mới.

Năm là, tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm lệch lạc, sai trái của các thế lực thù địch, chống lại âm mưu phá hoại “thế trận lòng dân”, gây mất lòng tin trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Kết luận

Nhận thức và tư duy mới của Đảng về xây dựng thế trận lòng dân trong nền quốc phòng Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là những chủ trương lớn, đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đồng thời, đây là kết quả của việc tổng kết sâu sắc quá trình lãnh đạo của Đảng về củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước. Tổ chức thực hiện thắng lợi những đường lối, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Quốc Phòng (2019), Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I.

[6] Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4.

[7] V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 36.

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.