Chủ nhật, ngày 26/12/2021, 16:42

Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 - nhìn từ khía cạnh đầu vào - thực trạng và khuyến nghị

LÊ SỸ THỌ
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Qua hai nhiệm kỳ Đại hội XI và XII của Đảng, việc thực hiện chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận song bên cạnh đó vẫn còn không ít vấn đề hạn chế, chưa tạo được bước chuyển căn bản sang mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Bài viết tập trung đánh giá thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam nhìn từ khía cạnh đầu vào, từ đó đề xuất khuyến nghị để tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn 2045 của đất nước.

Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, yếu tố đầu vào.

Nguồn: World Economic Outlook, 10/2019, Tổng cục Thống kê và tổng hợp các dự báo.

Đặt vấn đề

Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới ở Việt Nam, kinh tế vĩ mô của đất nước cơ bản ổn định, chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế, yếu kém và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp [1, tr.209-211]. Để đạt được những mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tiếp theo việc phân tích, đánh giá đúng thực trạng, xác định những thành tựu, hạn chế của mô hình tăng trưởng và đề xuất khuyến nghị để tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

1. Khái quát về mô hình tăng trưởng kinh tế

Mô hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia hay một nền kinh tế là tập hợp những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia hay nền kinh tế đó. Mô hình tăng trưởng kinh tế cho biết có những yếu tố nào dẫn đến tăng trưởng kinh tế của một nền kinh tế nhất định. Mỗi quốc gia, trong những giai đoạn phát triển khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể khác nhau, sẽ có mô hình tăng trưởng kinh tế khác nhau [3, tr.58].

Mô hình tăng trưởng kinh tế có thể được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó phổ biến nhất là: khía cạnh đầu vào (các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất), khía cạnh đầu ra (các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất), khía cạnh cấu trúc nền kinh tế (theo ngành, khu vực kinh tế) và khía cạnh thể chế kinh tế.

Khi xem xét mô hình tăng trưởng kinh tế ở khía cạnh đầu vào, các nhà kinh tế muốn đề cập đến số lượng, chất lượng và sự kết hợp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất. Theo quan điểm hiện đại, có 3 yếu tố đầu vào dẫn đến tăng trưởng kinh tế, đó là: vốn (bao gồm cả yếu tố tài nguyên thiên nhiên đang được sử dụng, gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất), lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Và cũng nhìn từ khía cạnh này, mô hình tăng trưởng kinh tế được phân chia thành hai loại hình: Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Mỗi mô hình có những đặc trưng như sau:

- Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng cơ bản là tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên mà không kèm theo tiến bộ công nghệ. Mô hình này đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh trong giai đoạn đầu phát triển của các nước đang phát triển. Song mô hình này cũng có nhiều hạn chế là làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, gia tăng chi phí cho một đơn vị sản phẩm, nguy cơ lạm phát, bội chi ngân sách, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

- Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có đặc trưng cơ bản là tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, với đa số lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Mô hình này giúp khắc phục tình trạng khan hiếm nguồn lực, giảm chi phí, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội, tạo ra sự tăng trưởng bền vững, dài hạn.

2. Thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 - nhìn từ  khía cạnh đầu vào

2.1. Phân tích các yếu tố đầu vào đóng góp vào tăng trưởng

Theo Ngân hàng thế giới, tốc độ tăng GDP của Việt Nam giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, ở mức bình quân 6,8%. Mức này cao hơn hẳn mức trung bình của 5 năm 2011-2015 là 5,91%.  (biểu đồ 1) 

Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020

 

Nguồn: https://vietnambiz.vn/loat-dau-an-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2020-20210126174317902.htm

Với mức tăng trưởng kinh tế bình quân này, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,91%, thuộc hàng cao nhất thế giới. Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia đạt mức tăng trưởng dương năm 2020.

 * Sự tham gia của yếu tố vốn

Giai đoạn 2001 - 2010, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội so với GDP bằng 41,6%. Đến giai đoạn 2011 - 2020, tỷ lệ này giảm xuống còn 32,9%. Việc huy động được nguồn vốn lớn đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội. hiệu quả đầu tư được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền kinh tế. (biểu đồ 2)   

Biểu đồ 2: Hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn: Tổng hợp từ Các báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020 của Tổng cục Thống kê

Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011 - 2015. Sang năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực như nền kinh tế khi ở trạng thái bình thường nên ICOR năm 2020 đạt 14,28. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 hệ số ICOR đạt 7,04.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, vốn  đầu tư vào khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm khoảng 5,7% - 6,3% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội nhưng khu vực này tạo ra 14% - 16% GDP của cả nước; trong khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tuy tạo ra 32% - 34% GDP nhưng vốn đầu tư của khu vực này chiếm tới 43,5% - 46% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; khu vực dịch vụ tạo ra 41% - 42% GDP nhưng vốn đầu tư chiếm tới 48,1% - 50,3% [6, tr.25]. Điều này cho thấy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đầu tư ít nhưng mang lại hiệu quả cao nhất, trong khi khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ tuy có đóng góp lớn đối với tăng trưởng kinh tế nhưng lượng vốn đầu tư vào khu vực này ở mức rất cao [6, tr.25]. Đây là một vấn đề cần lưu tâm về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư theo ngành, lĩnh vực.

* Sự tham gia của yếu tố lao động

Trong giai đoạn 2016 - 2020, lao động cùng yếu tố vốn đóng góp bình quân vào tăng trưởng kinh tế là 54,28%. Năng suất lao động (NSLĐ) có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo giá hiện hành, NSLĐ của toàn nền kinh tế năm 2016 đạt 84,4 triệu đồng/lao động; năm 2017 đạt 93,2 triệu đồng/lao động; năm 2018 đạt 102,1 triệu đồng/lao động; năm 2019 đạt 110,5 triệu đồng/lao động và năm 2020 đạt 117,4 triệu đồng/lao động. Tính theo giá so sánh năm 2010, bình quân giai đoạn 2016 - 2020, NSLĐ tăng 5,79%/năm, cao hơn so với tốc độ tăng bình quân 4,27%/năm của giai đoạn 2011 - 2015 và cao hơn mục tiêu tăng trưởng bình quân 5%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020. So với các quốc gia trong khu vực ASEAN, thời gian qua Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao. Tính chung giai đoạn 2011-2019, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2017 (PPP 2017) của Việt Nam tăng trung bình 5,1%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân của Xin-ga-po (2%/năm); Ma-lai-xi-a (2,3%/năm); Thái Lan (3,2%/năm); Phi-li-pin (4,4%/năm); In-đô-nê-xi-a (3,4%/năm) [4.tr. ]. (biểu đồ 3)

Biểu đồ 3: Năng suất lao động và Tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn: Các Báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020 của Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng [4]. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.   

* Sự tham gia của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)

Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng của nền kinh tế ngày một lớn. Trong giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 45,21%, vượt mục tiêu đặt ra của giai đoạn (30 - 35%), và cao hơn nhiều so với mức bình quân 32,84% của giai đoạn 2011 - 2015, trong đó năm 2016 đạt 44,87%; năm 2017 đạt 46,09%; năm 2018 đạt 44,76%; năm 2019 đạt 47,71% và năm 2020 đạt 37,48%. (biểu đồ 4)

Biểu đồ 4: Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)

vào tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn: https://vietnambiz.vn/loat-dau-an-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2020-20210126174317902.htm

Trong giai đoạn này, nguồn vốn đầu tư công đã đi đúng hướng, tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông. Nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới tổ chức quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao trình độ và tay nghề của người lao động nên TFP trong giai đoạn 2016 - 2020 đã có sự tiến bộ rõ rệt so với giai đoạn 2011 - 2015.

2.2. Đánh giá khái quát

Trong giai đoạn 2016 - 2020, mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực, trong đó đáng chú ý là sự gia tăng đáng kể của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng của nền kinh tế. Vốn và lao động có điều chỉnh giảm về tỷ trọng và cải thiện về hiệu quả, năng suất.

Mặc dù vậy, vốn và lao động - các nhân tố tuy quan trọng nhưng chủ yếu mang ý nghĩa đối với mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, vẫn đang đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế. Hiệu quả sử dụng vốn tuy có tăng nhưng không đáng kể và nhìn tổng thể thì phản ánh xu hướng đi ngang, thậm chí là giảm vào năm cuối của thời kỳ đánh giá (năm 2020) thể hiện ở hệ số ICOR rất cao. Năng suất lao động, tuy có tốc độ tăng ấn tượng nhưng khi so sánh với các nước trong khu vực thì vẫn còn khoảng cách khá xa.

Một cách khái quát nhất, có thể thấy mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua đã có những sự vận động tích cực, chuyển đổi theo hướng từ mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Tuy nhiên, tốc độ chuyển đổi còn chậm và về cơ bản thì mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn cho thấy tính chất của một mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng nhiều hơn.

3. Một số khuyến nghị

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định cần phải: “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng”, “chuyển mạnh” nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng mới, “tạo bứt phá” trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Để tạo dựng một mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu trong giai đoạn tiếp theo theo định hướng của Đảng, Chính phủ cần tập trung vào các giải pháp sau:

* Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

Trong các định hướng đổi mới, đổi mới về thể chế là quan trọng nhất. Sự khác biệt của một nước phát triển trung bình, kém phát triển và nước phát triển trước hết là do thể chế. Đây được coi là yếu tố quyết định quan trọng của năng lực cạnh tranh quốc gia để nền kinh tế của nước ta chuyển từ giai đoạn kinh tế dựa vào đầu tư sang nền kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo - Nền kinh tế tri thức. Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao cht lưng thể chế, pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh; bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường.

* Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Để gia tăng sự đóng góp của TFP vào tăng trưởng, cần phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, được coi là động lực chính của tăng trưởng. Trong đó có một số điểm cần chú ý như sau: (1) Lấy doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số; cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới; (2) Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; (3) Phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ; (4) Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ; phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt; (5) Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.

* Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo

Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục đào tạo, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển con người toàn diện. Chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia, đội ngũ nhân lực kỹ thuật và quản trị công nghệ, quản trị doanh nghiệp. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, trong quản lý, quản trị Nhà nước. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nghề nghiệp, đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, hình thành đội ngũ lao động lành nghề, có kỹ năng làm việc, tư duy sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

* Phát triển kết cấu hạ tầng của nền kinh tế

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, trong đó tập trung đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, quy mô lớn, nhất là về giao thông, thủy lợi, năng lượng, hạ tầng kỹ thuật số để khắc phục cơ bản những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển, tăng cường kết nối với các vùng, các trung tâm kinh tế trong nước, kết nối với khu vực và quốc tế. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN, Internet băng thông rộng phủ 100% các xã, phát triển mạng 5G, xây dựng hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu ngành, vùng, địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất; bảo đảm hạ tầng kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin.

* Đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Giải pháp này rất cần thiết vì doanh nghiệp là lực lượng chủ công, trực tiếp thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Các nội dung cụ thể gồm: Hoàn tất việc sắp xếp lại, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thành lập, hoạt động, phát triển, khuyến khích sáng tạo, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân.

Kết luận

Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt mà mọi quốc gia theo đuổi. Để đạt được mục tiêu này, một mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, với tỷ trọng cao của năng suất các nhân tố tổng hợp và sử dụng hiệu quả các nguồn lực vốn, lao động là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định. Ở Việt Nam, mô hình tăng trưởng kinh tế được đánh giá vẫn chưa phải là một mô hình tăng trưởng theo chiều sâu như mong muốn. Tuy nhiên với những chuyển biến mạnh mẽ và những kết quả đạt được đáng ghi nhận trong đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời gian qua, cùng với những quan điểm, đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị, có thể tin tưởng rằng Việt Nam đang đi đúng hướng trong đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra. 

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

2. Anh Đào, Đức Bùi (2021), Loạt dấu ấn nổi bật của kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 https://vietnambiz.vn/loat-dau-an-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2020-20210126174317902.htm.

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Kinh tế phát triển, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý luận chính trị.

4. Ngân hàng thế giới (World bank), Cơ sở dữ liệu các chỉ số phát triển thế giới, 2017.

5. Quách Đức Pháp (2012), Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Thực trạng và sự lựa chọn cho thời gian tới, Tạp chí Tài chính online, https://tapchitaichinh.vn.

6. Tổng cục Thống kê (2021), Các báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020. 

Đọc thêm

Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta

Tác giả: TS. Bùi Hồng Thanh

(LLCTTTĐT) Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao mức sống cho người dân và được cụ thể bằng quan điểm Đảng và Nhà nước ta phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào được lý giải trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Khơi thông mọi nguồn lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Tác giả: PGS. TS. Đào Duy Quát

(TG) - Chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở”, đồng thời “huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”.

Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền

Tác giả: TSKH. Đặng Huy Trinh

(TG) - Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới

Tác giả: PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa - TS Nguyễn Văn Dương

(LLCT) - Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng xây dựng, vun đắp. Bài viết khái quát mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo phương châm “hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện”, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hai nước đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là nền tảng xây dựng đạo đức công vụ

Tác giả: Bảo Châu

(TG) - Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng đối với việc củng cố uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần tạo động lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên làm nền tảng xây dựng đạo đức công vụ là yêu cầu, nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.