Thứ Ba, ngày 15/03/2022, 11:24

Chủ nghĩa xã hội - Tương lai của thế giới

PHẠM THANH HÀ
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Bài viết trình bày những dấu ấn của chủ nghĩa xã hội hiện thực (1917-1991), vị trí, vai trò và những thành tựu của một số nước XHCN hiện nay; khẳng định triển vọng tương lai của CNXH trong sự vận động, phát triển của thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực, những thành quả chủ nghĩa xã hội hiện thực đạt được trong thế kỷ XX, đặc biệt thành công của các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay và những khuyết tật mang tính bản chất của chủ nghĩa tư bản cho thấy “sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau” và tương lai của loài người đó là chủ nghĩa xã hội - quy luật phát triển khách quan của lịch sử.

Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội; phát triển; tương lai; thế giới.

Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Ảnh: TTXVN.

Đặt vấn đề

Thuật ngữ chủ nghĩa xã hội (CNXH) có nhiều cách tiếp cận khác nhau, song thường được hiểu với ba tư cách: (i). Chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn - phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, giành quyền dân chủ, làm chủ để giải phóng mình. Tính chất cơ bản của cuộc đấu tranh này là tính chất xã hội chủ nghĩa; (ii). Chủ nghĩa xã hội là một trào lưu tư tưởng, lý luận, học thuyết về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh giải phóng xã hội, giải phóng con người; (iii). Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội hiện thực - một mô hình, kiểu tổ chức xã hội được xây dựng trên thực tế theo những nguyên tắc của CNXH khoa học. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.

CNXH đề cập trong bài viết này là CNXH được hiện thực hóa trong thực tế cuộc sống - CNXH hiện thực. Như chúng ta đã biết, trên cơ sở phân tích những điều kiện khách quan về kinh tế - xã hội và tiếp thu, kế thừa những tiền đề phát triển của khoa học, văn hóa, tư tưởng cộng với vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen, năm 1848 tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được xuất bản đánh dấu sự ra đời của CNXH khoa học. CNXH khoa học là khoa học về các quy luật xã hội - chính trị, là học thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mác-xít nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp cách mạng và khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận CNXH khoa học, đưa lý luận đó vào thực tiễn cách mạng nước Nga làm nên cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, “mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên toàn thế giới”[7, tr.338]. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã đưa CNXH khoa học từ  lý luận, học thuyết trở thành hiện thực.CNXH hiện thực là thuật ngữ dùng để chỉ một chế độ, mô hình xã hội tồn tại trên thực tế từ khi giai cấp công nhân, nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và tiến hành tổ chức xây dựng. Cho đến nay CNXH hiện thực “đã ra đời, đang vận động, sinh thành và phát triển chứ chưa phải đã hoàn thiện, đã trưởng thành đầy đủ”[5, tr.24]. Nước Nga xô viết sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới. Từ sau năm 1945, hệ thống XHCN trên thế giới được hình thành và Liên Xô là trụ cột. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống CNXH trên thế giới lâm vào khủng hoảng. Hiện nay một số nước vẫn đang kiên trì con đường xây dựng CNXH và đạt được nhiều thành công trên mọi lĩnh vực.

1. Dấu ấn của chủ nghĩa xã hội hiện thực 1917-1991

Mặc dù với một thời gian không dài (hơn 70 năm ở Liên Xô, 30 - 40 năm ở các nước Đông Âu, so với sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) đến nay hơn 500 năm), nhưng CNXH hiện thực 1917-  1991 đã tạo nên nhiều kỳ tích to lớn không thể phủ nhận. Có thể chỉ ra một số thành tựu cơ bản, đó là (i). Một chế độ chính trị với nhiều điểm ưu việt, tiến bộ phù hợp với xu thế phát triển văn minh của thế giới được thiết lập. Trong đó nổi bất ở một số đặc trưng như: Xóa bỏ áp bức, bất công, đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội; chế độ dân chủ cho đa số nhân dân lao động ngày càng được khẳng định đi vào thực chất; chế độ XHCN không chỉ bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế cho nhân dân ở các nước xây dựng CNXH, mà hơn thế nữa còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) và trên toàn thế giới; (ii). Mặc dù hầu hết các nước xây dựng CNXH trong thế kỷ XX có điểm xuất phát kinh tế ở trình độ thấp hoặc trung bình của thế giới, song trong một thời gian ngắn các nước đã nhanh chóng có được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; (iii). Trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ cũng đạt được những thành tựu to lớn. Đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân được chăm lo, mọi người dân đều được hưởng thụ những phúc lợi xã hội chất lượng cao, được sống trong một môi trường hòa bình, lành mạnh trong tình thương, lẽ phải và sự tôn trọng lẫn nhau; (iv). Thành công và lớn mạnh toàn diện, CNXH có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò to lớn đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới; (v). Sức mạnh của hệ thống CNXH hiện thực, đặc biệt là Liên Xô đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới; bằng sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả về nhiều mặt, các nước XHCN đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, chấm dứt hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên khắp toàn cầu...

Tuy nhiên như chúng ta đã biết, sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ với nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của thế giới, cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hệ thống các nước XHCN trên thế giới lâm vào khủng hoảng, tan rã. Đây thực sự là một tổn thất lớn trong sự phát triển CNXH thế giới. Song việc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không đồng nghĩa với sự cáo chung của CNXH. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự khủng hoảng của một mô hình, một kiểu tổ chức xã hội trong quá trình đi tới một CNXH đầy đủ, ưu việt. Nó không đồng nghĩa là sự cáo chung của CNXH với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Sự sụp đổ, tan vỡ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sụp đổ của việc duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình CNXH kiểu Xô Viết, một mô hình nhà nước hành chính, quan liêu, bao cấp, chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, vận dụng sai những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, chứ không phải là sự lỗi thời, đổ vỡ của CNXH với tư cách là lý tưởng về một xã hội tốt đẹp và với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng, nhân văn. Tương lai của xã hội loài người vẫn là CNXH, đó là quy luật tất yếu, khách quan của sự phát triển lịch sử.

2. Các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay

Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, một số nước XHCN còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào... phải đối mặt với rất nhiều thách thức, khó khăn. Song, với bản lĩnh lãnh đạo, sự năng động, nhạy bén và tư tưởng kiên định, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin; kiên trì vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản; kiên trì sự nghiệp cải cách, đổi mới, mở cửa hội nhập với thế giới... các nước XHCN nói trên đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, từng bước đi vào ổn định, phát triển giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực. Việc trụ vững và phát triển mạnh mẽ của các nước XHCN hiện nay (điển hình như Trung  Quốc, Việt Nam) cho thấy những mưu đồ muốn xóa bỏ hoàn toàn CNXH trên phạm vi toàn thế giới vào cuối thế kỷ XX của các thế lực đế quốc, phản động đã bị phá sản. Đây là thành công đặc biệt quan trọng của CNXH và phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới. Điều này còn chứng tỏ rằng, trong tiến trình phát triển mang tính phổ biến toàn cầu của CNXH sẽ còn đối mặt với nhiều cản trở, nhiều thách thức. Song, CNXH sẽ luôn tồn tại, phát triển, khẳng định là một chủ thể quan trọng không thể thay thế của đời sống thế giới hiện tại và tương lai.

Từ những bài học kinh nghiệm thành công, thất bại của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, cùng những bài học kinh nghiệm xây dựng CNXH trong cải cách, đổi mới vừa qua ở nước mình, các Đảng Cộng sản cầm quyền đang xây dựng XHCN còn lại hiện nay vẫn không ngừng tích cực tìm tòi sáng tạo cả về lý luận và thực tiễn mô hình CNXH phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước và đặc điểm, xu thế phát triển của thế giới. Như Đảng khẳng định:“Lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa[3, tr.103]. Hiện nay, việc thiết kế và tổ chức xây dựng mô hình CNXH ở mỗi nước đều có những đặc điểm mang tính phổ biến chung (Nền tảng tư tưởng - chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản lãnh đạo, phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần, mở cửa hội nhập cùng thế giới...), đồng thời thể hiện rõ những nét bản sắc đặc thù phù hợp riêng trên mọi lĩnh vực tư tưởng, chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, đối ngoại của mỗi nước. Đây được đánh giá là một thành công trong nhận thức và cách tiếp cận của các nước XHCN hiện nay trong việc định hình mô hình phát triển. Thực tế này cũng đã phản ánh đúng với quan điểm của V.I.Lênin khi ông cho rằng: “tất cả các dân tộc đều tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”[6, tr.160].

Hiện nay, mặc dù số lượng ít, song thế và lực của các nước XHCN đã có những chuyển biến mạnh mẽ so với thập niên cuối của thế kỷ XX. Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu từng bước trở thành quốc gia có cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; một đất nước từ đói ăn, thiếu lương thực vươn lên thành “cường quốc” xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới; một đất nước luôn được thế giới đánh giá, ca ngợi có nền chính trị - xã hội ổn định, năng động; và một đất nước yêu chuộng hòa bình với phương châm đối ngoại: “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[3, tr.162]. Những thành tựu đó đã cho chúng ta có quyền tự hào rằng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[3, tr.104]. Với tinh thần này hoàn toàn có cơ sở để chúng ta tin tưởng Việt Nam:“Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[3, tr.112]. Với Trung Quốc, năm 1978 bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa, đến năm 2011 đã vươn lên trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới (tính tổng GDP chỉ sau nước Mỹ). Hiện nay Trung Quốc đang vươn lên mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực (kinh tế, khoa học kỹ thuật, đầu tư ra nước ngoài, quân sự, đối ngoại...) nhằm khẳng định vị thế “nước lớn” hàng đầu của thế giới. Mục tiêu Trung Quốc đặt ra đến giữa thế kỷ XXI sẽ xây dựng Trung Quốc trở thành cường quốc hiện đại hóa XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp. Các nước Lào, Cu Ba... cho dù đang phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức, song thông qua đường hướng phát triển của mình cũng đã, đang tạo được những dấu ấn đáng khích lệ trong phát triển kinh tế - xã hội và mở cửa hội nhập cùng thế giới.

Với những thành công quan trọng đã đạt được đó, các nước XHCN hiện nay đang chứng minh vai trò quan trọng trong đời sống thế giới ở thế kỷ XXI, đó là: Thứ nhất, các nước XHCN tiếp tục giữ vai trò là lực lượng đi đầu tiến hành quá độ từ CNTB lên CNXH trong đời sống thế giới. Mặc dù hiện nay so sánh tương quan lực lượng giữa CNXH và CNTB đang nghiêng về CNTB, trật tự thế giới đang sắp xếp vận động nhanh hơn theo hướng “đa cực, đa trung tâm”; toàn cầu hóa đang là xu thế chủ đạo thúc đẩy các nước “sống chung” và trách nhiệm với nhau nhiều hơn; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư kéo thế giới thu hẹp nhỏ lại, khoảng cách về địa lý không còn là một trở ngại của con người... Mặc dù vậy, xét về thực chất quy luật phát triển của thế giới vẫn đang là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Tham gia và thực hiện thời kỳ quá độ này có nhiều chủ thể (các quốc gia, các tổ chức, các đảng phái, các phong trào...), trong đó các nước XHCN là lực lượng chủ yếu, tiên phong. Thứ hai, các nước XHCN tiếp tục khẳng định là nhân tố tích cực và trách nhiệm trong phong trào đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự thế giới dân chủ, công bằng, hòa bình và một quan hệ quốc tế kiểu mới - hợp tác cùng tồn tại hòa bình, cùng có lợi và phát triển giữa các quốc gia dân tộc trong bối cảnh thế giới luôn có nhiều đổi thay hiện nay. Thứ ba, từ những thành tựu đạt được qua cải cách, đổi mới, mở cửa của các nước XHCN từ khi CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chế độ XHCN hiện nay đã, đang từng bước lấy lại và khẳng định được niềm tin của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các lực lượng cách mạng tiến bộ trên toàn thế giới về sức sống và triển vọng phát triển mạnh mẽ của CNXH.

3. Tương lai của chủ nghĩa xã hội trong sự vận động, phát triển của thế giới

Hiện có không ít người ngộ nhận rằng cuộc đấu tranh ý thức hệ không còn đáng kể nữa, thậm chí đã kết thúc sau khi đối đầu Đông - Tây chấm dứt. Thực tiễn của đời sống quốc tế những năm qua luôn cho thấy, mũi tiến công ý thức hệ trực diện nhất và khốc liệt nhất, không chỉ nhằm vào các nước XHCN đang tồn tại và những người đang hướng theo con đường XHCN, mà còn nhằm ngăn chặn, triệt tiêu hoàn toàn tư tưởng XHCN trên thế giới. Như vậy, cuộc tiến công này nhằm một mục tiêu tổng quát là loại bỏ, tiêu diệt hoàn toàn CNXH như một hình thái ý thức và như một hệ thống xã hội thế giới, bảo đảm sự toàn thắng “vĩnh viễn” của CNTB trong cuộc chiến ý thức hệ. Có thể nói cuộc khủng hoảng và sụp đổ CNXH cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã khiến cho phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế bước vào một thời kỳ khó khăn, phức tạp. Mặc dù vậy, “CNXH đâu phải là cáo chung: Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác vẫn giương cao ngọn cờ CNXH và giành được những thành tựu vĩ đại mà thế giới phải thừa nhận. Và điều đó cho thế giới biết rằng: CNXH khoa học vẫn có sức sống mãnh liệt”[1, tr.11]. Đây cũng chính là minh chứng sinh động cho thấy, thế giới sẽ còn nhiều đổi thay, song CNXH sẽ không ngừng thích ứng để phát triển đi lên.

Khẳng định triển vọng tương lai con đường đi lên CNXH vẫn là tất yếu, khách quan của lịch sử. Điều này được luận giải trên những cơ sở sau: (i). Trong thế giới hiện nay vẫn đang tồn tại “áp bức” dân tộc, áp bức giai cấp, bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo lớn... thì khát vọng đấu tranh giải phóng con người khỏi những áp bức đó và hướng tới sự tự do, bình đẳng, công bằng vẫn luôn hiện hữu và cháy bỏng ở mọi quốc gia, dân tộc; (ii). Tính tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội theo quan điểm học thuyết khoa học của Mác - Lênin đã chỉ rõ, sự vận động phát triển của xã hội loài người là sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội. Một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội TBCN sẽ thay thế, đó là hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa, giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của hình thái kinh tế Cộng sản chủ nghĩa đó là CNXH; (iii). Những thành tựu đạt được của CNXH trong thế kỷ XX cho thấy, trong một thời gian không dài với những ưu việt và cách mạng của mình, CNXH đã tạo nên những “kỳ tích” trong sự phát triển của thế giới. Sự xuất hiện và phát triển của CNXH hiện thực không những mở ra cho thế giới một thời kỳ phát triển mới, một kiểu quan hệ quốc tế mới, xác lập trong thực tiễn những yếu tố dân chủ XHCN đích thực; mà còn định vị lại địa vị của CNTB trong đời sống quan hệ quốc tế; và quan trọng hơn, CNXH trở thành biểu tượng, tấm gương và hậu thuẫn quan trọng cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới giành được thắng lợi. Vì vậy, cho dù hiện nay CNXH đang gặp những khó khăn, song những gì CNXH hiện thực đã đóng góp cho nhân loại vẫn được ghi nhận và là cơ sở niềm tin về những thành công mới của CNXH trong tương lai; (iv). Những thành công đạt được trong cải cách, đổi mới của các nước XHCN hiện nay trên mọi mặt cho thấy, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng bằng cách làm phù hợp, sự kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định con đường CNXH; kiên định vai trò lãnh đạo và các nguyên tắc xây dựng Đảng mác xít; luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế... các nước XHCN đang có thêm sinh lực mới thông qua cải cách, đổi mới để tiếp tục phát triển đi lên; (v). Sự kiên định trụ vững và từng bước đi vào ổn định phát triển với nhiều thành tựu to lớn mà các nước XHCN hiện nay đạt được đã khiến loài người không mất đi niềm hy vọng vào tương lai của CNXH. Đây là bằng chứng sinh động khẳng định khả năng tự đổi mới để phát triển của CNXH hiện thực và sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quá trình vận động phát triển của CNXH không bằng phẳng mà thăng trầm phức tạp, đan xen giữa cao trào và thoái trào, thuận lợi và khó khăn, thành công và thất bại. Mỗi lần thoái trào, thất bại tạm thời, CNXH lại “thai nghén” cho sự phát triển tiến bộ cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn về chất. Đó cũng là phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội; (vi). Trong bối cảnh hiện nay, nhất là với điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư và toàn cầu hóa, CNTB vẫn còn nhiều tiềm năng và khả năng thích nghi, tự điều chỉnh để tồn tại. Song CNTB cùng với quá trình thích nghi đã đồng thời tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để giai cấp công nhân kế thừa trong xây dựng xã hội mới. Những điều chỉnh của CNTB khiến cho diện mạo của nó tuy khác trước nhiều, tuy nhiên bản chất của nó không hề thay đổi và không khắc phục được nhiều mâu thuẫn trong xã hội. Đặc biệt “những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra”[2, tr.68-69]. Vì thế, CNTB không phải là tương lai của xã hội loài người...

Kết luận

Thách thức đối với CNXH trong thời gian tới vẫn còn rất nhiều, như mô hình phát triển vẫn thiếu tính bền vững, chưa thực sự đủ khả năng thuyết phục toàn nhân loại; tình trạng tha hóa, suy thoái của một bộ phận không nhỏ đảng viên cộng sản ở các nước XHCN làm suy giảm niềm tin trong xã hội; các thế lực thù địch, phản động vẫn tiếp tục tấn công nhằm xóa bỏ CNXH... Nhưng với những gì đã diễn ra trong thực tiễn thời gian qua và những nội dung luận giải ở trên cho phép chúng ta tin tưởng rằng những người cộng sản ở các nước XHCN sẽ chế ngự và vượt qua được các thách thức, thích ứng kịp thời với những vận động của thế giới đương đại để tiếp tục theo đuổi mục tiêu con đường của mình. Cho dù số lượng các nước đang xây dựng XHCN hiện nay còn khá khiêm tốn, nhưng từ những kết quả đạt được trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước XHCN đã chứng tỏ đường lối đúng đắn, phù hợp quy luật, đã tạo ra những sức mạnh vật chất, tinh thần, khẳng định được giá trị CNXH trong đời sống thế giới đương đại, đồng thời bảo đảm cho CNXH phục hồi, phát triển mạnh mẽ, có sức thuyết phục và khả năng cạnh tranh, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều hoạt động của thế giới. Đánh giá về triển vọng tương lai của CNXH, Nghị quyết Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”[2, tr.69].     

Tuy nhiên, “cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng CNXH là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng”[8]. Vì thế “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại”[8]; “và điều hết sức quan trọng là phải luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động”[8]. Sự kiên định, vững vàng ấy phải trên cơ sở “tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”[8]. Thế giới luôn vận động và sẽ còn nhiều đổi thay, chặng đường phía trước sẽ còn rất nhiều gian nan, thử thách và biến đổi khó lường, song một thực tế tất yếu không thể phủ nhận, đó là: Chủ nghĩa xã hội - tương lai của thế giới.

Tài liệu tham khảo:

[1] Lý Thiết Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (2000), đăng trong “Hội thảo khoa học Trung - Việt: Chủ nghĩa xã hội cái phổ biến và cái đặc thù”, Bắc Kinh, ngày 13/6/2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

[5] Đinh Thế Huynh (2012), Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 30, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, số tháng 5, ngày 16/05/2021.

Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Tác phẩm “Thường thức chính trị” vào xây dựng Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thanh

(GDLL) - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết, trong số đó “Thường thức chính trị” là tác phẩm nổi bật trình bày về nội dung xây dựng Đảng. Bài viết phân tích nội dung xây dựng Đảng trong tác phẩm và nêu lên những định hướng vận dụng vào công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp nối truyền thống tự hào, vẻ vang 70 năm hình thành và phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng - giá trị vận dụng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tác giả: Lê Tuấn Vinh - Nguyễn Thị Thanh Nhàn

(GDLL) - Bài viết khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đánh giá khái quát việc thực hiện nội dung này trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu lên những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy giá trị cốt lõi này trong công tác xây dựng Đảng thời gian tới.

Phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân

Tác giả: PGS.TS. Lê Văn Cường

(TG) - Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho tất cả Đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở. Thời gian qua, nội dung phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng: “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng từng bước được nâng lên, trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, đặc biệt là Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về vấn đề này”(1).

Nâng cao nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam hiện nay

Tác giả: Th.S Lê Đình Dương

(GDLL) - Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức xuyên tạc nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất là phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Đối tượng mà chúng hướng tới là thanh niên, nhất là sinh viên, những người nhạy bén với cái mới, nhưng còn thiếu vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về chính trị - xã hội. Bài viết nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.

Phát huy vai trò của công tác tư tưởng trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

Tác giả: PGS.TS. Đào Duy Quát

(TG) - Đây là kết quả của bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về quốc phòng an ninh, đối tác đối tượng, về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.