Thứ Ba, ngày 15/03/2022, 12:32

Phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

TRẦN THANH TÙNG - NGÔ QUANG TRUNG
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam đã trở thành những vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng nhanh, thúc đẩy quá trình phát triển của cả nước. Tuy nhiên, thời gian qua các vùng kinh tế trọng điểm vẫn chưa phát huy hết tiềm năng như kỳ vọng, chưa trở thành động lực phát triển cho cả nước. Bài viết này đánh giá thực trạng vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua và đề ra một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai trò tạo động lực cho tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm đối với nền kinh tế đất nước

Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế; vùng kinh tế trọng điểm; vai trò của vùng kinh tế trọng điểm.

Ảnh minh họa: quanlynhanuoc.vn

Đặt vấn đề

Trong giai đoạn vừa qua, các vùng trọng điểm đã trở thành những trung tâm kinh tế, cung cấp dịch vụ, tạo việc làm cho các địa phương trong vùng và cả nước. Tuy vậy, cơ cấu kinh tế của các vùng chưa tạo được sức cạnh tranh và động lực phát triển cho cả nước; năng suất lao động còn thấp, các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa sử dụng hết năng lực; đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cả nước còn thấp và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng với nhau.

1. Vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm

Với tư cách là cực tăng trưởng, vùng kinh tế trọng điểm giữ vai trò làm đầu tàu tăng trưởng để đẩy mạnh quá trình phát triển cho các vùng đó, đặc biệt có tác động lan tỏa, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương lân cận, và tiến tới đảm nhận vai trò chi phối tăng trưởng đối với nền kinh tế theo chiều hướng tích cực, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô.

Trên giác độ đó, có thể khái quát vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm đối với nền kinh tế quốc dân được thể hiện trên các tiêu chí sau: (i) thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia; (ii) đóng góp tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương nội vùng và cho cả nền kinh tế quốc dân; (iii) thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tiềm năng và lợi thế của mình, vùng kinh tế trọng điểm thường được ví như thỏi nam châm thu hút luồng vốn FDI; (iv) thúc đấy tăng GRDP bình quân đầu người của các địa phương trong vùng; (v) góp phần đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

2. Thực trạng vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

2.1. Các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam

Hiện nay, nước ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm gồm: vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình hình thành, phạm vi lãnh thổ và vị trí của từng vùng kinh tế trọng điểm được xác định:

1) Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ được thành lập theo Quyết định số 747/TTg ngày 11/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ bao gồm thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương; năm 2004 được bổ sung thêm 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Bắc Ninh.

2) Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam được thành lập theo Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg ngày 23/2/1998 của Thủ tướng Chính phủ bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu; đến năm 2009 bổ sung thêm tỉnh Tiền Giang. Đây là vùng có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tập trung đủ các điều kiện và lợi thế phát triển các ngành mũi nhọn, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước

3) Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được thành lập theo Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi; năm 2004 bổ sung thêm tỉnh Bình Định. Vùng nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa các vùng phía Bắc và phía Nam của nước ta, là cửa ngõ quan trọng thông ra biển của vùng Tây Nguyên, có ý nghĩa chiến lược và điều kiện thuận lợi hình thành một hành lang giao lưu kinh tế, thương mại quan trọng, nối Tây Nguyên, Mi-an-ma, Cam-pu-chia và Lào với đường hàng hải quốc tế qua Biển Ðông và Thái Bình Dương.

4) Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được thành lập theo Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16/04/ 2009 của Thủ tướng Chính phủ, đóng vai trò là trung tâm dẫn đầu cả nước về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông, thủy sản của cả nước. Ngoài ra, vùng kinh tế này còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cho cả vùng ĐBSCL.

2.2. Sự đóng góp của các vùng kinh tế trọng điểm trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn vừa qua

Một là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Trong giai đoạn 2011-2019, tổng sản phẩm trên địa bàn của 4 vùng kinh tế trọng điểm tăng bình quân 7,25%. Quy mô GRDP của 24 địa phương thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm chiếm 70% tổng sản phẩm quốc nội. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Nam Bộ là hai vùng có tác động lớn nhất. Tương ứng, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hai cực tăng trưởng quan trọng của cả nước, đóng góp vào tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2011-2019 là 13,08% và 19,9%/năm [2]. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có tốc độ tăng GRDP bình quân toàn vùng giai đoạn 2011-2019 đạt 8,14%/năm, cao hơn đáng kể so với mức chung của cả nước là 6,2%[4].

Hai là, đóng góp vào nguồn thu ngân sách quốc gia

Giai đoạn 2011-2017, tổng thu ngân sách các vùng kinh tế trọng điểm năm 2011 đạt 682,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 82,77% tổng thu ngân sách địa phương; năm 2014 đạt 926,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 82,74% và đến năm 2016 đạt 1.063,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 81,09%; ước tính năm 2017 tổng thu của 4 vùng đạt 1.012,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,07% [10, tr.47]. Năm 2019, tổng thu ngân sách vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ước đạt khoảng 89.367 tỷ đồng, chiếm khoảng 6,32% tổng thu ngân sách quốc gia (NSQG)[4]. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2016-2018 đạt 1.170 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 11,2%/năm, chiếm 31,2% tổng số thu NSQG, riêng Hà Nội chiếm hơn 19%[9]. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt khoảng 608 nghìn tỷ đồng, đóng góp trên 42% tổng thu ngân sách của cả nước [11], thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đóng góp ngân sách lớn nhất, chiếm 27% tổng thu NSQG [5]. Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL có tỉ lệ thu ngân sách rất thấp, đa số các địa phương trong vùng chưa cân đối được ngân sách.

Ba là, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Giai đoạn 2011-2017, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đạt gần 30 tỷ USD, bằng 29,82% tổng vốn đầu tư thực hiện của cả nước trong cùng giai đoạn; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt 35,31 tỷ USD, bằng 35,12%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 2,29 tỷ USD, bằng 2,28%; vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL chỉ đạt 539,58 triệu USD, bằng 0,54% [10, tr.57]. Sau khi có chiến lược điều chỉnh về thu hút và sử dụng FDI trong giai đoạn mới của Việt Nam, đồng thời cuộc thương chiến Mỹ - Trung đã đẩy các doanh nghiệp FDI trên thế giới chuyển hướng và tràn về Việt Nam, tuy nhiên, quá trình dịch chuyển FDI đến các vùng kinh tế trọng điểm không đồng đều. Vốn FDI thực hiện tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung rất thấp, chiếm 4,03% tổng vốn FDI thực hiện của cả nước [8]; ĐBSCL thu hút được khoảng 1.489 dự án FDI với tổng vốn đăng ký chưa đến 21 tỷ USD, trong khi đó, cả nước có tới 27.643 dự án còn hiệu lực với tổng số đăng ký hơn 340 tỷ USD[7]. Vốn FDI thường tập trung vào 02 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và phía Nam. Tại Hà Nội, thu hút FDI phát triển bứt phá, với khoảng 7.000 dự án cấp mới và tăng thêm vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 32,1 tỷ USD, bằng 33% về số dự án và 27% tổng vốn đầu tư đăng ký so với cả nước. Năm 2020 trong bối cảnh nhiều khó khăn, kết quả thu hút vốn FDI của Hà Nội vẫn đạt 3,72 tỷ USD[6]. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút FDI đã có dấu hiệu đuối sức, quy mô các dự án đầu tư FDI chỉ khoảng 10 triệu USD, thấp hơn mức bình quân cả nước 12,42 triệu USD. Thậm chí, quy mô bình quân một dự án ở thành phố Hồ Chí Minh còn rất thấp, chỉ 5,56 triệu USD[3].

Bốn là, thúc đẩy gia tăng GRDP bình quần đầu người

Giai đoạn 2011-2017, GRDP bình quân đầu người ở các vùng kinh tế trọng điểm có xu hướng tăng, trong đó GRDP/người của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cao hơn nhiều mức bình quân chung cả nước, tương ứng là gấp 1,34 lần đến 1,40 lần và gấp từ 1,76 lần đến 1,99 lần. Trong đó, GRDP/người của 2 thành phố lớn là Hà Nội gấp 1,38 đến 1,51 lần và Thành phố Hồ Chí Minh gấp 2,07 đến 2,12 lần. Tuy nhiên, GRDP/người của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long lại thấp hơn nhiều, tương ứng chỉ bằng 0,77 lần đến 0,82 lần và 0,66 lần đến 0,69 lần mức trung bình cả nước [10, tr.38].

Năm là, tăng tỉ lệ lao động được đào tạo

Tại các vùng kinh tế trọng điểm, số lượng tham gia lao động được đào tạo ngày càng tăng kéo theo đó là trình độ của nguồn nhân lực toàn vùng ngày càng phát triển (biểu 1). Tuy nhiên, vùng miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long vẫn có tỉ lệ lao động qua đào tạo rất thấp, đối với vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng mặc dù có tỉ lệ cao hơn, nhưng chủ yếu vẫn tập trung tại Hà Nội và TP.HCM. Đây là điều đáng lo ngại, bởi trong xu hướng dịch chuyển sang nền kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực chưa qua đào tạo sẽ không đáp ứng được yêu cầu và sẽ gây nên tình trạng thiếu hụt nhân lực trong phát triển dài hạn.


Nguồn: Tổng cục Thống kê

2.3. Đánh giá chung về vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm trong việc trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước

Những thành tựu đạt được

Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các vùng kinh tế trọng điểm tới kinh tế cả nước được thể hiện thông qua tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có mức đóng góp cao nhất nhưng lại đang có xu hướng giảm. Vùng Bắc Bộ đứng thứ hai. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 2 cực tăng trưởng quan trọng của cả nước, đóng góp vào tăng trưởng chung cả nước bình quân năm trong giai đoạn 2011-2017 tương ứng đạt 13,6% và 19,4% [10 tr.72] là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước ta trong giai đoạn này. Giai đoạn từ 2018 - 2020, do khủng hoảng kinh tế và đại dịch Covid-19 nên hầu hết các vùng kinh tế trọng điểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo theo sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế của cả nước.

Các KCN đã tạo việc làm cho 2.542,5 nghìn lao động, trong đó KCN ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã tạo việc làm cho 711,4 nghìn lao động; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 130,6 nghìn lao động; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 1.653,4 nghìn lao động và vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long 47,1 nghìn lao động[1].

Quy mô kinh tế của các vùng kinh tế trọng điểm ngày càng lớn, chiếm tỷ trọng cao trong quy mô GDP, khẳng định vị trí quan trọng của các vùng này đối với sự phát triển kinh tế quốc gia. GRDP/người của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tương đối cao so với mức trung bình của cả nước; thu hút một lượng vốn quan trọng từ đầu tư trực tiếp nước ngoài, hình thành nên các trung tâm khoa học - công nghệ, tạo dựng được cơ sở vật chất hiện đại, đào tạo được lực lượng lao động có tay nghề làm nền tảng quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và cả nước.

Những tồn tại hạn chế

i) Giữa các vùng kinh tế trọng điểm và ngay các địa phương trong nội vùng tăng trưởng không đều, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng; chưa phát huy được vai trò trọng điểm; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất còn chậm.

ii) Tác động lan tỏa và tính liên kết của các vùng kinh tế trọng điểm tới các địa phương lân cận và trong cả nước chưa cao. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được vai trò động lực tăng trưởng; chưa tạo được tác động lan tỏa thúc đẩy các vùng lân cận phát triển; năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của các vùng trọng điểm còn thấp. Các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm chưa hình thành được mối liên kết, phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp.

iii) Các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm có mức và tốc độ tăng năng suất lao động thấp, lao động có trình độ và tay nghề còn ít. Khu vực FDI chủ yếu thực hiện gia công lắp ráp với trình độ trung bình; chưa đầu tư nhiều vào lĩnh vực sản xuất sử dụng công nghệ cao, xử lý ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.

iv)Chất lượng và trình độ nguồn nhân lực chưa theo kịp sự phát triển. Đây không chỉ là vấn đề đối với các vùng kinh tế trọng điểm mà là vấn đề đối với cả nền kinh tế. Bởi, ngay chính tại các vùng kinh tế trọng điểm, nguồn lao động qua đào tạo đạt tỉ lệ rất thấp, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Những hạn chế này có nguyên nhân cả từ thể chế và quá trình tổ chức thực thi chính sách, thể hiện: tư duy kinh tế tỉnh theo ranh giới hành chính vẫn mang tính chất chủ đạo; việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giao chỉ tiêu ngân sách, phân bổ kế hoạch vốn đầu tư... đều trên cơ sở kế hoạch của từng địa phương, chưa có ý niệm vùng; cơ cấu kinh tế của từng địa phương dựa trên địa giới hành chính. Vấn đề giao thông thiếu kết nối nội vùng và liên vùng thiếu và yếu, hạn chế này bộc lộ rất rõ ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng đồng bằng sông Cửu Long.

3. Một số giải pháp phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế của việt nam trong thời gian tới

Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược dài hạn để phát triển kinh tế - xã hội trong vùng, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nghề phù hợp với điều kiện phát triển của vùng và các địa phương trong vùng dựa trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng để từ đó có sự đầu tư thích đáng nhằm thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát triển. Nhanh chóng xây dựng quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch cấp vùng có tầm nhìn đến năm 2050 bảo đảm có tầm nhìn dài hạn, phát huy tiềm năng, lợi thế sẵn có, tính liên kết đặc thù của từng vùng theo phương pháp tích hợp nhiều quy hoạch, thể hiện được vai trò "đầu tàu" của vùng kinh tế trọng điểm.

Thứ hai, tăng cường và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của các vùng kinh tế trọng điểm, nâng cấp, hoàn thiện các trục kết nối liên tỉnh, liên vùng, hệ thống đường cao tốc, đường bộ, sân bay và cảng biển theo hướng đồng bộ, hiện đại nhằm giải quyết vấn đề giao thông giữa các vùng, các địa phương được thuận tiện hơn. Đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông của vùng đồng bằng sông Cửu Long đang là vấn đề gây cản trở cho sự thông thương của sản phẩm sản xuất chủ lực của vùng, cần xây dựng cơ chế chính sách đặc thù huy động nguồn lực xã hội và bố trí nguồn lực đầu tư thích đáng từ nguồn ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2021-2025 để phát triển kết cấu hạ tầng của vùng kinh tế trọng điểm, nhất là các dự án giao thông, thủy lợi liên vùng, các dự án quan trọng quy mô lớn tác động lan tỏa tích cực.

Thứ ba, cần đẩy mạnh xây dựng mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các vùng kinh tế trọng điểm; tránh phụ thuộc vào một số ngành, lĩnh vực phát triển không bền vững, đã hết dư địa tăng trưởng. Đẩy mạnh liên kết kinh tế nhằm xây dựng các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao; tập trung vào một số ngành công nghiệp địa phương có lợi thế trong mối quan hệ phân công, hợp tác giữa các địa phương trong vùng. Có quy định ràng buộc trong thực hiện liên kết theo hướng các địa phương sẽ được hưởng lợi từ ngân sách nhà nước khi thực hiện liên kết vùng.

Thứ tư, cần có Luật về phát triển vùng kinh tế trọng điểm để tháo gỡ khó khăn một cách căn cơ, quá trình hình thành và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm vẫn bị chi phối nặng nề bởi quan điểm hành chính, mở rộng phạm vi không gian gắn với địa giới hành chính, kiện toàn bộ máy của Hội đồng liên kết vùng kinh tế trọng điểm theo hướng thu hút các thành phần kinh tế - xã hội cùng tham gia, chú trọng sự tham gia của các doanh nghiệp trong xây dựng và thực hiện các nội dung liên kết vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm cần thường xuyên cập nhật thông tin của địa phương nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu vùng.

Thứ năm, nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa và chuyển đổi số. Các vùng kinh tế trọng điểm cần có chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực. Muốn vậy, từng địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phải có sự đột phá trong tư duy và giải pháp về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực theo hướng mở rộng về số lượng, nâng cao về chất lượng, chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của chính các vùng kinh tế trọng điểm. Phát triển nguồn nhân lực bậc cao nên được thực hiện ở cấp vùng hơn là cấp địa phương.

Kết luận

Có thể thấy các vùng kinh tế trọng điểm là các cực tăng trưởng quan trọng, giữ vai trò đầu tàu, dẫn dắt cả nước. Tuy vậy, vai trò trọng điểm vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế sẵn có; đồng thời đang đối mặt nhiều thách thức như: tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, nguồn thu ngân sách nhà nước chưa bền vững; cơ chế điều phối vùng chưa thật sự hiệu quả, cơ chế liên kết giữa các ngành, lĩnh vực chưa có hoặc còn lỏng lẻo, liên kết và phân công nhiệm vụ giữa các địa phương trong vùng chưa rõ ràng kết cấu hạ tầng còn hạn chế nhất là hạ tầng giao thông. Do đó, trong thời gian tới cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp đã nêu trên mới có thể phát huy được vai trò là đầu tàu và động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia như kỳ vọng.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban Quản lý khu công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo thực trạng Khu công nghiệp tháng 6 năm 2018.

[2]Gia Khánh (2020), Phát huy vai trò của các đầu tàu kinh tế, https://hanoimoi.com.vn

[3] Anh Nhi (2021), Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Thu hút FDI bắt đầu đuối sức, https://vneconomy.vn

[4] Nhóm tác giả (Hoàng Hồng Hiệp, Châu Ngọc Hòe, Hoàng Thị Thu Hương) (2021), Phát triển kinh tế vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, https://vas.gov.vn

[5] Nhóm tác giả (Hoàng Tuấn, Xuân Khu, Tiến Lực) (2020), TP Hồ Chí Minh luôn là địa phương đóng góp ngân sách lớn nhất cả nước, https://tuyengiao.vn

[6] Phúc Nguyên (2020), Năm 2020 - Hà Nội thu hút 3,72 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, https://thoibaotaichinh vietnam.vn

[7] Theo báo điện tử Thương Trường (2019), Thu hút vốn FDI tại Đồng bằng sông Cửu Long: Nghịch lý vì đâu, https://thuong truong. com.vn

[8] Đỗ Văn Tính, Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, https://tapchicong thuong.vn

[9]  Nguyễn Thị Thọ (2019), Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đẩy mạnh liên kết để phát triển bứt phá, https://conso sukien.vn

[10] Tổng cục Thống Kê (2019), Tăng trưởng các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2011-2017,  NXB Thống kê

[11] Thiên Vương (2019), Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tiếp tục là đầu tàu trong phát triển bền vững kinh tế đất nước, https://nhandan.vn


Đọc thêm

Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta

Tác giả: TS. Bùi Hồng Thanh

(LLCTTTĐT) Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao mức sống cho người dân và được cụ thể bằng quan điểm Đảng và Nhà nước ta phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào được lý giải trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Khơi thông mọi nguồn lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Tác giả: PGS. TS. Đào Duy Quát

(TG) - Chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở”, đồng thời “huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”.

Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền

Tác giả: TSKH. Đặng Huy Trinh

(TG) - Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới

Tác giả: PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa - TS Nguyễn Văn Dương

(LLCT) - Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng xây dựng, vun đắp. Bài viết khái quát mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo phương châm “hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện”, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hai nước đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là nền tảng xây dựng đạo đức công vụ

Tác giả: Bảo Châu

(TG) - Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng đối với việc củng cố uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần tạo động lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên làm nền tảng xây dựng đạo đức công vụ là yêu cầu, nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.