Thứ Bảy, ngày 15/10/2022, 10:50

Ứng dụng chuyển đổi số tại Học viện Chính trị khu vực I hiện nay - Thực trạng và khuyến nghị

TRƯƠNG BẢO THANH
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Chuyển đối số là xu hướng tất yếu đối với mọi tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh đó, Học viện Chính trị khu vực I đã không ngừng ứng dụng chuyển đổi số trong các mặt hoạt động của Học viện. Bài viết tập trung phân tích làm rõ thực trạng ứng dụng chuyển đổi số tại Học viện Chính trị khu vực I thời gian qua, trên cơ sở đó chỉ ra những khó khăn, thách thức trong quá trình chuyển đổi số và đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số tại Học viện Chính trị khu vực I trong thời gian tới.

Từ khóa: Chuyển đổi số; ứng dụng chuyển đổi số; Học viện Chính trị khu vực I.

Đặt vấn đề

Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển của khoa học - công nghệ mới đang phát triển mạnh mẽ, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, cũng không nằm ngoài xu thế đó. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/06/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030...

Học viện Chính trị khu vực I là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cho Đảng và Nhà nước ở 28 tỉnh, thành phố phía Bắc. Trong những năm qua, Học viện đã triển khai Nghị quyết, thực hiện nhiều giải pháp nhằm triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, bước đầu có được các nền tảng để thực hiện chuyển đổi số trong một số mặt hoạt động của Học viện. Học viện đã đầu tư vào các nền tảng cho hoạt động chuyển đổi số như: thư viện số, hệ thống quản lý công tác học vụ, lưu trữ các văn bản đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức cán bộ, xuất bản tạp chí Giáo dục lý luận điện tử... Tuy nhiên, các nền tảng này còn rời rạc, chưa liên thông trong toàn hệ thống, chưa khai thác hết những tiến bộ của công nghệ để phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, chưa thực thực sự hỗ trợ được cho công tác quản trị, quản lý đặc biệt là quản trị Học viện theo mô hình Học viện thông minh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cán bộ, giảng viên, học viên và các biên liên quan.

1. Chuyển đổi số và vai trò của ứng dụng chuyển đối số

1.1. Chuyển đổi số là gì?

Theo Thomas M.Siebe cho rằng chuyển đổi số là sự hội tụ của 4 công nghệ đột phá sau: công nghệ điện toán đám mây (Cloud computing), dữ liệu lớn (Bigdata), internet kết nối vạn vật  (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI)”[3].

Công nghệ số là công nghệ thông tin có sự bổ sung, tích hợp thêm các công nghệ mới bao gồm nhưng không giới hạn như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (Blockchain), in 3D, internet kết nối vạn vật (IoT), kết nối mạng bang thông rộng (5G, sau 5G), dữ liệu lớn (Bigdata), điện toán đám mây (cloud Computing), thực tại ảo (VR), thực tại tăng cường (AR), thực tại trộn (MR)[4].

Số hóa (Digitization) là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số (như việc chuyển thể dữ liệu ở dạng giấy hoặc định dạng truyền thống khác thành những dữ liệu mềm trên máy tính). Số hóa là một phần của quá trình chuyển đổi số. 

Với ứng dụng số hóa (Digitalization) có thể hiểu là một chuỗi các hoạt động nhằm nâng cao hiệu suất công việc và giảm bớt thời gian cần thiết để thao tác công việc đã có và thực hiện từ trước. Chuyển đổi số đề cập đến việc tạo ra những phương thức, mô hình làm việc mới dựa trên dữ liệu ở dạng số hóa và ứng dụng số. Chuyển đổi số tạo ra một chuỗi hoạt động thay đổi cách thức vận hành và những việc làm cụ thể từ trước đến nay như là một quá trình hoàn chỉnh áp dụng số hóa và ứng dụng số hóa nhưng ở một cấp độ cao hơn.

Chuyển đổi số (Digital transformation) có thể hiểu là sự tích hợp đầy đủ các công nghệ kỹ thuật số, ứng dụng các công nghệ mới để thay đổi cách thức vận hành đem đến những giá trị mới. Chuyển đổi số dựa trên những ứng dụng công nghệ mới (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo AI... để thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình thực hiện.

1.2. Vai trò của ứng dụng chuyển đổi số

Ứng dụng chuyển đổi số có vai trò quan trọng đối với Chính phủ, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức và người dân.

Đối với Chính phủ, cơ quan, tổ chức: Ứng dụng chuyển đối số sẽ góp phần thay đổi hệ thống công nghệ, mô hình và phương thức hoạt động của bộ máy cơ quan nhà nước trong cung ứng dịch vụ công. Chuyển đổi số cũng làm thay đổi nhận thức của lãnh đạo, những người đứng đầu các quốc gia, tổ chức.

Đối với doanh nghiệp: Ứng dụng chuyển đổi số trong các doanh nghiệp sẽ góp phần tăng cường sự kết nối giữa các bộ phận góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp. Tăng cường sự minh bạch và hiệu quả trong hệ thống quản trị doanh nghiệp. Ứng dụng chuyển đổi số giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Đối với người dân: Ứng dụng chuyển đổi số sẽ tạo ra rất nhiều tiện ích cho người dân trong việc tiếp cận các dịch vụ trực tuyến của Chính phủ, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp cụ thể như việc tiếp cân các dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ Y tế, Giáo dục, dịch vụ Ngân hàng, dịch vụ mua sắm.

2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về ứng dụng chuyển đổi số

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/06/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; Bộ Thông tin và Truyền thông  ban hành Đề án xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2030; Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương ban hành Nghị quyết số 05-/NQ/ĐUK, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng ủy Khối về sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động công tác đảng giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến năm 2030; Đảng ủy Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ban hành kế hoạch số 14-KH/ĐU, Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/ĐUK ngày 26-10-2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối cơ quan  Trung ương  về sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động công tác đảng giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.

Quán triệt triển khai Nghị quyết của Đảng và Chính sách của Nhà nước, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về chuyển đổi số, Giám đốc Học viện Chính trị khu vực I ban hành Quyết định số 558-QĐ/HVCTKVI, về cử cán bộ tham gia lớp Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý về chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan tổ chức; Quyết định số 1337-QĐ/HVCTKVI, về việc thành lập Tổ triển khai ứng dụng công nghệ chuyển đổi số cho các phòng học. 

3. Thực trạng ứng dụng chuyển đổi số tại Học viện Chính trị khu vực I

Chuyển đổi số không chỉ là tin học hóa hay số hóa, mà là một quá trình chuyển đổi toàn diện về phương thức giao tiếp, quản lý, quản trị, tạo ra các giá trị mới, cơ hội phát triển mới trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học trên môi trường số.

Ứng dụng chuyển đổi số, Học viện tập trung vào ba nội dung chính: (1) Chuyển đổi số trong quản trị nhà trường; (2) Chuyển đổi số trong công tác đào tạo, quản lý đào tạo, hoạt động xuất bản tạp chí Giáo dục lý luận điện tử; (3) Phát triển nguồn học liệu số, thư viện số.

Chuyển đổi số bước đầu được thực hiện trên nền tảng số trong hoạt động quản lý, quản trị nhà trường, hiện nay, hầu hết các hoạt động quản lý, quản trị nhà trường đã được ứng dụng công nghệ thông tin ví dụ như các phần mềm: Hệ thống quản lý hành chính điện tử egov; Quản lý đào tạo (phần mềm quản lý học vụ, phần mềm điểm danh nhận diện khuôn mặt thông qua công nghệ AI, phần mềm lưu trữ các văn bản đào tạo...); Phần mềm quản lý và xuất bản tạp chí Giáo dục lý luận điện tử; Phần mềm thư viện số.

Học viện đã đầu tư các thiết bị thông minh lắp tại các lớp học, phòng hội thảo như: Đầu ghi hình, bảng điện tử thông minh, bàn học thông minh, thiết bị họp trực tuyến. Học viện đang tổ chức cho các giảng viên tham gia lớp học giáo dục thông minh. Bởi vì giảng viên là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của đào tạo trực tuyến, từ xa và quá trình chuyển đổi số theo mô hình lớp học thông minh, giảng dạy thông minh và học tập thông minh, Học viện thông minh. Do đó, đội ngũ giảng viên cần được trang bị kỹ năng về công nghệ và phương pháp sư phạm để thực hiện chuyển đổi số, bao gồm phương pháp giảng dạy theo tiếp cận mới, phương thức vận hành các công cụ/môi trường số, cách thức biên soạn tài liệu số, xây dựng bài giảng tương tác...

Cụ thể Học viện đã triển khai ứng dụng các phần mềm cho nền tảng chuyển đổi số:

Một là, Hệ thống quản lý hành chính điện tử. Việc điều hành và ban hành các văn bản chỉ đạo của Học viện đều thông qua hệ thống quản lý hành chính điện tử (egov). Toàn bộ các văn bản được lưu trữ trên hệ thống quản lý hành chính điện tử, các văn bản và các chỉ đạo được điều hành trên hệ thống quản lý hành chính điện tử. Toàn bộ việc điều hành của Đảng ủy, Ban Giám đốc, Chi ủy, lãnh đạo khoa đều thông quan hệ thống quan lý hành chính điển tử egov. Hàng ngày cán bộ, giảng viên, người lao động phải thường xuyên truy cập vào phần mềm để nắm được thông tin và các hoạt động của Học viện đang diễn ra để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Hai là, Phần mềm quản lý đào tạo. Học viện đã ứng dụng phần mềm trong quản lý đào tạo, trong đó có công tác quản lý học vụ được thể hiện việc học viên nộp đơn xin nghỉ học, hoãn thi, học ghép, học bổ sung v.v.. đều thực hiện thông qua phần mềm. Học viên không phải gặp trực tiếp mà chỉ trao đổi, giao tiếp thông qua phần mềm quản lý học viên tạo rất nhiều thuận lợi cho học viên, không gây phiền hà, sách nhiễu học viên đảm bảo công khai, minh bạch trong việc xét duyệt nghỉ học, nghỉ thi. Sau khi các các thủ tục được duyệt trên phần mềm, học viên hoàn thiện giấy tờ và gửi bản cứng có dấu đỏ các hồ sơ liên quan đến việc nghỉ học, nghỉ thi, hoãn học, hoãn thi theo đúng quy định của Quy chế đào tạo về Ban quản lý đào tạo theo đường bưu điện. Ứng dụng phần mềm trong công tác quản lý học v giúp cho việc giao tiếp, quản lý học viên được nhanh chóng, thuận lợi hơn, tránh gây phiền hà, sách nhiễu học viên.

Ba là, Phần mềm điểm danh nhận diện khuôn mặt thông qua công nghệ AI. Học viện đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý học viên trong và ngoài giờ học thông qua phần mềm điểm danh nhận diện khuôn mặt thông qua công nghệ (trí tuệ nhân tạo) AI đảm bảo khách quan, công bằng trong công tác quản lý học viên. Việc quản lý chặt chẽ học viên thông qua phần mềm nhận diện khuôn mặt góp phần hạn chế tình trạng nghỉ học, nghỉ tiết của học viên đồng thời đảm bảo công khai, minh bạch trong công tác quản lý học viên.

Bốn là, Phần mềm thư viện số. Học viện đã đẩy mạnh việc số hóa các tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo và hoạt động nghiên cứu khoa học. Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh vừa qua, học viên không có điều kiện để đến trực tiếp thư viện đọc sách, Trung tâm thông tin khoa học đã thực hiện số hóa tất cả các tài liệu tham khảo đối với từng môn học để các giảng viên và học viên có thể tham khảo phục vụ tốt cho hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học.

Năm là, Phần mềm trang web tạp chí Giáo dục lý luận chính trị điện tử

Đây là phần mềm khá hiện đại được thiết kế với giao diện, quy trình biên tập và đăng bài. Dữ liệu của tạp chí những năm trước đây được đưa dần lên dưới dạng file PDF và dữ liệu được lưu trữ thông qua công nghệ điện toán đám mây và thuê công ty VDC lưu trữ để đảm bảo tính bảo mật của thông tin. Phần mềm hiện đang tiếp tục được hoàn thiện các tiện ích để bạn đọc, các nhà khoa học, các cộng tác viên thuận lợi trong việc sử dụng, truy cập, tải các tài liệu của tạp chí lưu trữ trên đám mây; đồng thời biên tập viên, và cán bộ phụ trách tạp chí Giáo dục lý luận điện tử có thể theo dõi quản lý và quản trị tạp chí hiệu quả.

Sáu là, Phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin trong lưu trữ đối với các văn bản đào tạo lưu trữ vĩnh viễn. Các văn bản đào tạo bản cứng được sắp xếp một cách khoa học trên cả tủ lưu trữ tương ứng với các file văn bản lưu trữ trên phần mềm máy tính. Số hóa tài liệu, đặt mục từ khóa tìm kiếm cho tài liệu. Sau khi scan các văn bản đào tạo dưới dạng các file ảnh, nhân viên lưu trữ thực hiện số hóa các tài liệu và đặt mục từ khóa tìm tài liệu để phục vụ cho công tác tìm kiếm tài liệu nhanh hơn và thuận tiện hơn đỡ tốn nhiều công sức. Xây dựng phần mềm lưu trữ, tra cứu văn bản đào tạo lưu trữ vĩnh viễn trên máy tính phù hợp với quy mô của dữ liệu hiện có. Cập nhật tài liệu văn bản đào tạo đã chỉnh lý vào phần mềm. Các tài liệu sau khi scan màu sẽ được lưu trữ bản cứng vào các ngăn trong các tủ lưu trữ hồ sơ các văn bản đào tạo. Các file ảnh PDF được nhập vào hệ thống phần mềm lưu trữ được thiết kế sẵn một cách khoa học để dễ tra cứu, dễ truy cập và các file dữ liệu các văn bản đào tạo tương ứng với các chỉ mục được lập ở các tủ đựng bản cứng các văn bản đào tạo.

4. Những khó khăn và thách thức trong chuyển đổi số tại Học viện Chính trị khu vực I

Thứ nhất, kỹ năng sử dụng và làm chủ công nghệ. Chuyển đổi số đòi hỏi cán bộ, viên chức của Học viện phải có đủ kỹ năng sử dụng công nghệ.

Thứ hai, hạ tầng và nền tảng công nghệ. Chuyển đổi số đòi hỏi hạ tầng công nghệ mới cho cả người học, người trực tiếp giảng dạy, cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý. Đi kèm là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng để toàn bộ các hoạt động của các cấp trong Học viện diễn ra trên cùng một nền tảng, tương thích, kết nối và tích hợp được.

Thứ ba, sự sẵn sàng tiếp nhận của học viên. Rất nhiều học viên chưa sẵn sàng cho học tập trực tuyến vì nhiều lý do: Trang thiết bị, hạ tầng viễn thông, phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên chưa thuyết phục.

Thứ tư, khó khăn lớn nhất của chuyển đổi số là thay đổi thói quen. Thách thức lớn nhất của chuyển đổi số là có nhận thức đúng. Chuyển đổi số là chuyện chưa có tiền lệ, vì vậy, nhận thức đúng là việc khó. Nhận thức đúng về chuyển đổi số còn phải đặt trong bối cảnh cụ thể của một tổ chức.

Thứ năm, chuyển đổi số trong hoạt động giảng dạy và học tập đang là thách thức lớn nhất đối với giảng viên và học viên. Đối với giảng viên, việc xây dựng bài giảng gắn với môi trường chuyển đổi số đòi hỏi giảng viên phải chuẩn bị bài giảng ứng dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như sử dụng dữ liệu lớn (Big Data), thực tại ảo (VR), thực tại tăng cường (AR). Tài liệu, giáo trình, slide bài giảng phải được số hóa để phục vụ việc học tập nghiên cứu của giảng viên và học viên.

Thứ sáu, phần mềm điểm danh nhận diện khuôn mặt bằng sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vẫn chưa thực sự thông minh do thời gian nhận diện khuôn mặt của phần mềm trung bình phải mất 30 phút để nhận diện toàn bộ học viên của lớp. Do vậy, trong thời gian tới cần phải nâng cấp phần mềm này để thông minh hơn, nhận diện khuôn mặt của học viên nhanh hơn, đáp ứng tốt yêu cầu của công tác quản lý học viên, đảm bảo sự công bằng, công khai, minh bạch trong công tác quản lý học viên, đánh giá rèn luyện học viên.

Thứ bảy, phần mềm lưu trữ đối với các văn bản đào tạo chỉ là ứng dụng phần mềm đơn giản, chưa thực sự thông minh và tính bảo mật chưa cao. Đối với công tác lưu trữ các văn bản đào tạo thì phần mềm quản lý phải thực sự thông minh và có tính bảo mật cao.

 

PGS.TS. Nguyễn Vĩnh Thanh, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện chủ trì Hội nghị

 chào cờ, phổ biến, quán triệt Nghị quyết tháng 10/2022

5. Một số khuyến nghị đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số tại Học viện Chính trị khu vực I trong thời gian tới

- Thứ nhất, sự quyết tâm vào cuộc của Đảng ủy, Ban giám đốc trong việc hoạch định chiến lược và sự đồng lòng của toàn thể cán bộ, giảng viên và học viên trong việc triển khai thực hiện chuyển đổi số trên tất cả các hoạt động của Học viện. Chủ động tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặc biệt là đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong các mặt hoạt động của Học viện.

- Thứ hai, Học viện cần tập trung nguồn lực cho phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng cho quá trình chuyển đổi số thành công. Đầu tư nâng cấp hệ thống mạng đường truyền băng thông rộng, chú trọng đến tính bảo mật và an toàn thông tin, an ninh mạng.

Thứ ba, Học viện cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ về công nghệ thông tin phục vụ cho quá trình chuyển đổi số. Đào tạo nâng cao trình độ quản trị mạng cho cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin.

Thứ tư, Học viện cần tập trung vào chuyển đổi số trong công tác đào tạo cụ thể:

Một là, đối với phần mềm điểm danh bằng nhận diện khuôn mặt thông qua công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cần nâng cấp để thông minh hơn, kết hợp công nghệ trí tuệ nhân tạo và công nghệ véc tơ để nhận diện khuôn mặt được nhanh chóng hơn đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý đào tạo đồng thời đảm bảo sự công bằng đối với các đồng chí học viên tham gia học tập các chương trình đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện Chính trị khu vực I.

Hai là, đối với phần mềm lưu trữ đối với các văn bản đào tạo, cần nâng cấp phần mềm hiện đại hơn và tương thích với các phần mềm khác và tích hợp được với phần mềm của toàn hệ thống do đề án xây dựng Học viện thông minh của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phần mềm này phải đảm bảo tính bảo mật cao vì liên quan đến hồ sơ của các nhân sự.

Ba là, đối với hoạt động chuyển đổi số trong hoạt động giảng dạy. Đây là hoạt động khó khăn nhất, đặc biệt là việc xây dựng giáo trình, slide bài giảng thông qua ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư (thực tại ảo AR, thực tại tăng cường VR, ứng dụng dữ liệu lớn Bigdata) đòi hỏi phải được Học viện đầu tư xây dựng chương trình chuyển đổi số trong hoạt động giảng dạy. Học viện phải chuẩn bị nguồn lực tài chính cho công tác này vì công tác giảng dạy đây là hoạt động cốt lõi nhằm thay đổi tư duy trong xây dựng giáo trình, đề cương bài giảng, slide bài giảng với việc ứng dụng nhiều công nghệ cao trong hoạt động giảng dạy.

Kết luận

Học viện Chính trị khu vực I thời gian qua đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi số trong các mặt hoạt động của Học viện. Học viện đã đầu tư vào các nền tảng cho hoạt động chuyển đổi số như: thư viện số, hệ thống quản lý công tác học vụ, lưu trữ các văn bản đào tạo, xuất bản tạp chí Giáo dục lý luận điện tử... Tuy nhiên, để đáp ứng mô hình quản trị Học viện theo mô hình Học viện thông minh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cán bộ, giảng viên, học viên và các bên liên quan, Học viện cần đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong các mặt hoạt động của Học viện đáp ứng được yêu cầu công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh mới.

Tài liệu tham khảo: 

 [1] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

[2] Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021, Phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.

[3] Phạm Anh Tuấn (dịch) (2019) Chuyển đổi số (Digital Transformation), Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, 2019.

[4] Đề án xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội năm 2022.

 

Đọc thêm

Giải pháp thực hiện Cam kết của Việt Nam về "Net zero" vào năm 2050

Tác giả: Phạm Tú Tài

(GDLL) - Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net Zero). Bài viết tập trung phân tích những tác động của phát thải khí nhà kính, dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu; nỗ lực của Việt Nam trong giảm phát thải khí nhà kính và đề xuất một số giải pháp Việt Nam cần thực hiện trong lộ trình "Net Zero" vào năm 2050.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Vũ Thị Hoài Phương

(GDLL) - Trong quá trình xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò hết sức quan trọng. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã nỗ lực hết mình để thực hiện chuyển đổi số, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Bài viết nghiên cứu về thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tác giả: Lục Việt Dũng

(GDLL) - Bài viết khái quát sự phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nhấn mạnh những nội dung mới tại Nghị quyết số 27-NQTW; từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm các đặc trưng này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay

Tác giả: ThS Lưu Thị Thu Phương

(LLCT) - Nghiên cứu, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một hoạt động quan trọng trong lãnh đạo, quản lý xã hội, do đó cần không ngừng được đổi mới công tác này để giúp cấp ủy, chính quyền phát hiện những điểm nóng về tư tưởng, kịp thời giải tỏa xung đột xã hội tiềm tàng. Bài viết tập trung làm rõ các phương pháp định hướng dư luận xã hội đang được sử dụng, nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh

Tác giả: ThS. Cao Phan Giang

(GDLL) - Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là những danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho dòng tư tưởng về dân ở Việt Nam. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi hội tụ những giá trị vượt trội của thời đại phong kiến với và nhiều quan điểm tiến bộ về dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết tinh của tư tưởng thân dân truyền thống cùng những giá trị tiến bộ của nhân loại trong ý thức hệ của giai cấp công nhân. Sự giống và khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, ý thức hệ và bài học dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của hai tác giả cho thấy sự vận động và phát triển liên tục của dòng tư tưởng về dân Việt Nam.