Thứ Bảy, ngày 15/10/2022, 11:01

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội thời kỳ đổi mới

NGUYỄN TÔN PHƯƠNG DU
Học viện Chính trị khu vực II

(GDLL) - Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến chính sách an sinh xã hội. Sau hơn 35 năm đổi mới, hệ thống an sinh xã hội đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế. Bài viết tập trung làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội, tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội thời kỳ đổi mới. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội trong thời gian tới.

Từ khóa: An sinh xã hội; chính sách an sinh xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam; thời kỳ đổi mới.

Phường Linh Trung, Thành phố Thủ Đức thành lập điểm an sinh xã hội khẩn cấp trên địa bàn nhằm hỗ trợ người dân trong đại dịch Covid-19. (Ảnh: nld.com.vn)

Đặt vấn đề

An sinh xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, động lực để phát triển đất nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thể hiện tính ưu việt của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, nhất là các chính sách về tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, chính sách đối với người có công... Song, nhìn chung hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam còn một số hạn chế và chưa đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy Đảng, Nhà nước chú trọng xây dựng hệ thống an sinh xã hội thích ứng và phù hợp với tình hình mới để hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới

Trải qua hơn 35 năm đổi mới, mặc dù đất nước còn gặp nhiều khó khăn, song chính sách an sinh xã hội luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải ổn định đời sống kinh tế, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu của xã hội. Cụ thể là, bảo đảm “ăn đủ no, có thêm dinh dưỡng, mặc đủ ấm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về bảo vệ sức khoẻ và chữa bệnh, đi lại, học hành và hưởng thụ văn hoá, tăng thêm đồ dùng thiết yếu của các gia đình, khắc phục một bước khó khăn về nhà ở”[2, tr. 43]. Đây được coi là mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), lần đầu tiên Đảng khẳng định nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội để người dân có “cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”, “bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”[8, tr. 233].

Nhận thức mới về mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng xác định là: “vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[3, tr. 28], góp phần tạo tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đưa ra quan điểm giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần “xã hội hóa”, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc của xã hội; tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn, cải cách chế độ tiền lương; giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo; chăm sóc tốt người có công... Đồng thời, thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và bảo trợ xã hội nhằm bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương; người già không nơi nương tựa, người tàn tật và những nạn nhân do hậu quả chiến tranh và thiên tai để lại đều được chăm sóc, giúp đỡ.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chủ trương xây dựng chính sách an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm toàn dân; đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm... Trong đó, “chú trọng thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội; vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang”[4, tr.104]. Đây là điểm mới so với các kỳ đại hội trước đó, là cơ sở quan trọng để hình thành mạng lưới an sinh đồng bộ, có diện bao phủ nhiều đối tượng, nhiều khu vực kinh tế xã hội khác nhau.

Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục coi an sinh xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên, là cơ sở để phát triển bền vững giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và bảo vệ môi trường. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi và bổ sung) lần đầu tiên khẳng định quyền an sinh xã hội là quyền cơ bản của con người. Đặc biệt, Nghị quyết số 15 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ngày 1 - 6 - 2012 Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 đã đề ra quan điểm bảo đảm an sinh xã hội với cấu trúc gồm: 1 - Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2 - Bảo hiểm xã hội; 3 - Trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 4 - Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, bảo đảm thông tin). Quan điểm này đã trở thành nền tảng và định hướng cho việc thể chế hóa cơ chế, chính sách, pháp luật về an sinh xã hội gắn liền với yêu cầu thực tiễn của đất nước.

Đại hội XII của Đảng (2016) khẳng định bảo đảm an sinh xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới. Do đó, cần “tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân”[5, tr. 137].

Đại hội XIII của Đảng (2021) diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động sâu sắc. Để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, Đảng đã đưa ra quan điểm: “Hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động; bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công; tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương, mở rộng bảo hiểm xã hội...”[6, tr. 65]. Đại hội còn đề xuất đổi mới các chính sách về bảo hiểm thất nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động phi chính thức, thực hiện các biện pháp, chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm... Qua đó, khẳng định vị trí, vai trò của an sinh xã hội đối với sự phát triển của đất nước, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội Đảng, quan điểm, chủ trương về an sinh xã hội ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay, hệ thống an sinh xã hội đã và đang được xây dựng hoàn thiện, có tác động tích cực đến đời sống xã hội của người dân, góp phần quan trọng ổn định chính trị - xã hội của đất nước, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

2. Tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội qua hơn 35 năm đổi mới

Sau hơn 35 năm thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử[6, tr. 25]. Trong đó, hệ thống an sinh xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Một là, chính sách giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực

Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi duy trì ở mức thấp và giảm dần. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm từ mức 3,37% năm 2015 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện, ước đạt 64,5% năm 2020, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 24,5%, tăng so với năm 2015 (19,9%)[7, tr. 41 - 42].

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 được triển khai hiệu quả. Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau” đạt nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm trên 1,4%/năm. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản[7, tr. 43].

Hai là, công tác trợ giúp xã hội cho người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được thực hiện đầy đủ, kịp thời

Chế độ, chính sách đối với người có công được mở rộng về đối tượng hưởng thụ với mức trợ cấp được nâng lên hàng năm. Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 người là thân nhân của người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng. Bên cạnh đó, Nhà nước đã và đang thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hơn 335,8 nghìn hộ người có công; hỗ trợ cho hơn 181,4 nghìn hộ nghèo ở nông thôn và các vùng thường xuyên bị bão, lụt, xây dựng hơn 6 triệu mét vuông nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp tại đô thị và công nhân khu công nghiệp[7, tr. 43-44]. Hằng năm, Nhà nước hỗ trợ hàng chục vạn tấn gạo cho các địa phương để kịp thời hỗ trợ cho người nghèo và người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lụt và huy động hàng nghìn tỷ đồng hỗ trợ người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID -19, Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho người dân thông qua Nghị quyết số 42/NQ-CP của Chính phủ, ngày 9/4/2020, của Chính phủ “Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” và Quyết định số 15/2020/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/4/2020 “Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” với gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng cho người dân gặp khó khăn do đại dịch.

Ba là, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được bổ sung, sửa đổi góp phần mở rộng cơ hội tham gia, hưởng thụ của người dân

Bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội trở thành lưới an sinh xã hội quan trọng, hỗ trợ người dân vượt qua các rủi ro ốm đau, bệnh tật, thai sản, thất nghiệp. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng, với hơn 16,1 triệu người tham gia, đạt 32,6% lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2020, tăng 327 nghìn người so với năm 2019. Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng 949 nghìn người, đạt 1,068 triệu người, tăng gần gấp đôi so với năm 2019[1]. Bảo hiểm y tế giúp giảm chi trực tiếp từ tiền túi hộ gia đình cho dịch vụ y tế, góp phần tạo nên sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là đối với nhóm người yếu thế trong xã hội. Hằng năm, Quỹ bảo hiểm y tế đã chi trả phí khám chữa bệnh lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đến năm 2020 đạt 90,7% tăng mạnh so với năm 2015 (76,5%) vượt mục tiêu đề ra (80%)[7, tr. 48].

Bốn là, các dịch vụ xã hội cơ bản được chú trọng đầu tư, phát triển

Nhà nước triển khai nhiều chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để các em đều được đến trường. Phổ cập giáo dục từ mầm non đến cấp trung học cơ sở được hoàn thành trước thời hạn. Chương trình đổi mới giáo dục phổ thông được triển khai theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được đổi mới, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và hội nhập quốc tế.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe của người dân được tăng cường, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng cao và từng bước giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên. Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương và mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển; đã từng bước kiểm soát được đại dịch COVID -19. Tỷ lệ bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 8,2 bác sĩ năm 2016 lên 9 bác sĩ năm 2020, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra[7, tr. 46]. Trong khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân đã được ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến, từ xa. Nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng.

Hệ thống thông tin và truyền thông phát triển hiện đại, rộng khắp góp phần rút ngắn khoảng cách và bảo đảm tiếp cận thông tin của nhân dân giữa các vùng miền; Mạng lưới cấp nước sạch được quan tâm đầu tư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn, tỷ lệ nông thôn được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia tăng từ 38,7% (năm 2012) lên 52% (năm 2018).

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nên việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: Hệ thống pháp luật về an sinh xã hội chưa theo kịp với đòi hòi của nền kinh tế thị trường; các nguy cơ về rủi ro kinh tế, xã hội và môi trường có xu hướng tăng; Sự phân hóa giàu nghèo, xu hướng già hóa dân số, thất nghiệp, ốm đau, bệnh tật, thiên tai... luôn là những nguy cơ trực tiếp và tiềm ẩn đối với quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.

3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện chính sách an sinh xã hội trong thời gian tới

Thứ nhất, nâng cao nhận thức và năng lực thực hiện chính sách an sinh xã hội của đội ngũ cán bộ các cấp

Nâng cao nhận thức về an sinh xã hội giúp khắc phục những tư tưởng cục bộ, tham nhũng, tiêu cực... Từ đó, phát huy tác dụng của các chính sách cứu trợ xã hội tốt hơn. Các cấp chính quyền nâng cao nhận thức và năng lực về an sinh có ý nghĩa rất quan trọng giúp định hướng, phổ biến đúng đắn quan điểm, chủ trương của Đảng để người dân hiểu và tự giác tham gia chính sách an sinh xã hội. Đồng thời, phát huy tối đa nguồn lực của người dân vào các quỹ an sinh xã hội, giảm nhẹ gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. Nâng cao năng thực thực hiện chính sách an sinh xã hội của đội ngũ cán bộ các cấp phải được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm kịp thời giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên trong quá trình làm việc cũng như trong đời sống. Kiên quyết xử lý đúng quy định của pháp luật, không dung túng, bao che đối với cán bộ, đảng viên vi phạm.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả

Tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến an sinh xã hội theo hướng kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội công bằng, bảo đảm an sinh xã hội. Bổ sung, hoàn thiện pháp luật về an sinh số, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm khung pháp lý đầy đủ, phù hợp, hiệu lực, khả thi phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Ưu tiên hoàn thiện các chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, tránh cào bằng, hỗ trợ theo nhu cầu và tạo động lực phấn đấu cho đối tượng thụ hưởng, khuyến khích người dân chủ động, tích cực. Khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thủ tục hành chính nhằm tạo cơ sở hành lang pháp lý đầy đủ nhất có thể cho lĩnh vực an sinh xã hội.

Chi trả tiền hỗ trợ Covid-19 cho người dân ở Hà Nội. (Ảnh: tuyengiao.vn/)

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chủ trương, chính sách an sinh xã hội

Tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm nắm bắt kịp thời khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, phòng ngừa vi phạm pháp luật và đánh giá hiệu quả thực hiện các quy định pháp luật về an sinh xã hội. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung chính sách mới, tích cực triển khai, thực hiện hiệu quả các gói hỗ trợ nhằm bao phủ những khoảng trống trong chính sách an sinh xã hội; hoàn thiện hệ thống theo dõi giám sát cho từng lĩnh vực, thực hiện nghiêm túc các hoạt động báo cáo định kỳ, cập nhật đầy đủ và chính xác các số liệu qua các cấp quản lý; không phê duyệt, cấp kinh phí khi không báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp thời.

Kết luận

Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Trải qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, các trụ cột an sinh xã hội đều được quan tâm đặc biệt góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc đổi mới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy, những quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò, mục tiêu và hệ thống giải pháp đẩy mạnh thực hiện hiệu quả an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế đã trở thành cơ sở lý luận cho việc hoạch định và thực hiện chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ngân Anh (2021), Sáu dấu ấn về an sinh xã hội của năm 2020, Báo Nhân dân điện tử, ngày 1-1-2021, https://nhandan.vn

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Đọc thêm

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Bảo vệ chủ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên không gian mạng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ là nhiệm vụ rất quan trọng, có tầm chiến lược. Phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng và ứng phó với những nguy cơ mới đến từ không gian mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Bài viết đi sâu khái quát quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về an ninh mạng và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới.