Từ khóa: An sinh xã
hội; chính sách an sinh xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam; thời kỳ đổi mới.
Phường Linh Trung, Thành
phố Thủ Đức thành
lập điểm an sinh xã hội khẩn cấp trên địa bàn nhằm hỗ trợ người dân trong đại
dịch Covid-19. (Ảnh: nld.com.vn)
Đặt vấn
đề
An sinh
xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, động lực để phát triển đất
nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thể hiện tính ưu việt của mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tổ chức thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội, nhất là các chính sách về tạo việc làm, bảo đảm
thu nhập tối thiểu cho người dân, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế,
giáo dục, chính sách đối với người có công... Song, nhìn chung hệ thống an sinh
xã hội ở Việt Nam còn một số hạn chế và chưa đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của
nhân dân. Vì vậy Đảng, Nhà nước chú trọng xây dựng hệ thống an sinh xã hội
thích ứng và phù hợp với tình hình mới để hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới
Trải
qua hơn 35 năm đổi mới, mặc dù đất nước còn gặp nhiều khó khăn, song chính sách
an sinh xã hội luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải
ổn định đời sống kinh tế, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu của xã
hội. Cụ thể là, bảo đảm “ăn đủ no,
có thêm dinh dưỡng, mặc đủ ấm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về bảo vệ sức khoẻ và
chữa bệnh, đi lại, học hành và hưởng thụ văn hoá, tăng thêm đồ dùng thiết yếu
của các gia đình, khắc phục một bước khó khăn về nhà ở”[2, tr. 43]. Đây được coi là mục tiêu của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), lần đầu
tiên Đảng khẳng định nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội để người dân
có “cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân”, “bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên
trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể
chất”[8, tr.
233].
Nhận
thức mới về mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII (1996) của Đảng xác định là: “vì hạnh phúc của con người là động
lực to lớn để phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[3, tr. 28], góp phần tạo tiền đề đưa đất nước
chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đưa ra quan điểm giải quyết các
vấn đề xã hội theo tinh thần “xã hội hóa”, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các
nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể và tổ chức xã hội
trong việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết có hiệu quả những
vấn đề bức xúc của xã hội; tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả
thành thị và nông thôn, cải cách chế độ tiền lương; giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo;
chăm sóc tốt người có công... Đồng thời, thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và
bảo trợ xã hội nhằm bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống
bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương; người già
không nơi nương tựa, người tàn tật và những nạn nhân do hậu quả chiến tranh và
thiên tai để lại đều được chăm sóc, giúp đỡ.
Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chủ trương xây dựng chính sách an sinh xã hội đa dạng; phát triển
mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm toàn dân; đa
dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm... Trong đó, “chú
trọng thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội; vận động toàn dân tham gia các
hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách
mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời
sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không
nơi nương tựa; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi,
lang thang”[4,
tr.104]. Đây là điểm
mới so với các kỳ đại hội trước đó, là cơ sở quan trọng để hình thành mạng lưới
an sinh đồng bộ, có diện bao phủ nhiều đối tượng, nhiều khu vực kinh tế xã hội
khác nhau.
Đại hội
XI của Đảng (2011) tiếp tục coi an
sinh xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên, là cơ sở để phát triển bền
vững giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi và bổ
sung) lần đầu tiên khẳng định quyền an sinh xã hội là quyền cơ bản của con
người. Đặc biệt, Nghị quyết số 15 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
ngày 1 - 6 - 2012 Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012 - 2020 đã đề ra quan điểm bảo đảm an sinh xã hội với cấu
trúc gồm: 1 - Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2 - Bảo hiểm xã hội; 3 - Trợ
giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 4 - Bảo đảm mức tối
thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, bảo
đảm thông tin). Quan điểm này đã trở thành nền tảng và định hướng cho việc thể
chế hóa cơ chế, chính sách, pháp luật về an sinh xã hội gắn liền với yêu cầu
thực tiễn của đất nước.
Đại hội XII của
Đảng (2016) khẳng định bảo đảm an sinh xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm
trong thời kỳ mới. Do đó, cần “tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội
phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng
cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để
trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp
yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển
và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
tai nạn lao động... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội
của công dân”[5,
tr. 137].
Đại hội
XIII của Đảng (2021) diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến
động sâu sắc. Để thực hiện tốt
chính sách an sinh xã hội, Đảng đã đưa ra quan điểm: “Hoàn thiện đồng bộ và
thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; phát
triển thị trường lao động; bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã
hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có
công; tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương, mở rộng bảo hiểm xã hội...”[6, tr. 65]. Đại hội còn đề xuất đổi mới các chính
sách về bảo hiểm thất nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động phi chính
thức, thực hiện các biện pháp, chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm...
Qua đó, khẳng định vị trí, vai trò của an sinh xã hội đối với sự phát triển của
đất nước, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Như
vậy, trải qua các kỳ Đại hội Đảng, quan điểm, chủ trương về an sinh xã hội ngày
càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay, hệ thống an sinh xã
hội đã và đang được xây dựng hoàn thiện, có tác động tích cực đến đời sống xã
hội của người dân, góp phần quan trọng ổn định chính trị - xã hội của đất nước,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
2.
Tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội qua hơn 35 năm đổi mới
Sau hơn
35 năm thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[6, tr. 25]. Trong đó, hệ
thống an sinh xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đáng kể vào
sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Một
là, chính sách giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đạt nhiều kết
quả tích cực
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi
duy trì ở mức thấp và giảm dần. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
giảm từ mức 3,37% năm 2015 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo được cải thiện, ước đạt 64,5% năm 2020, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ
đạt 24,5%, tăng so với năm 2015 (19,9%)[7, tr. 41 - 42].
Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 được triển
khai hiệu quả. Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ
lại phía sau” đạt nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn nghèo
đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020,
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm trên 1,4%/năm. Đời sống người dân không
ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản[7, tr. 43].
Hai
là, công tác trợ giúp xã hội cho người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn được thực hiện đầy đủ, kịp thời
Chế độ,
chính sách đối với người có công được mở rộng về đối tượng hưởng thụ với mức
trợ cấp được nâng lên hàng năm. Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2
triệu người có công, trong đó số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng
tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 người là thân nhân của người có công đang
hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng. Bên cạnh đó, Nhà nước đã và đang thực hiện
hỗ trợ nhà ở cho hơn 335,8 nghìn hộ người có công; hỗ trợ cho hơn 181,4 nghìn
hộ nghèo ở nông thôn và các vùng thường xuyên bị bão, lụt, xây dựng hơn 6 triệu
mét vuông nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp tại đô thị và công nhân khu công
nghiệp[7, tr. 43-44]. Hằng
năm, Nhà nước hỗ trợ hàng chục vạn tấn gạo cho các địa phương để kịp thời hỗ
trợ cho người nghèo và người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lụt và huy động
hàng nghìn tỷ đồng hỗ trợ người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Đặc biệt,
trong bối cảnh đại dịch COVID -19, Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho
người dân thông qua Nghị quyết số 42/NQ-CP của Chính phủ, ngày 9/4/2020, của
Chính phủ “Về các biện pháp hỗ trợ
người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” và Quyết định số 15/2020/ QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/4/2020 “Quy
định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch
COVID-19” với gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng cho người dân gặp khó
khăn do đại dịch.
Ba
là, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được bổ sung, sửa đổi góp phần mở
rộng cơ hội tham gia, hưởng thụ của người dân
Bảo
hiểm y tế và bảo hiểm xã hội trở thành lưới an sinh xã hội quan trọng, hỗ trợ
người dân vượt qua các rủi ro ốm đau, bệnh tật, thai sản, thất nghiệp. Diện bao
phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng, với hơn 16,1 triệu người tham gia, đạt 32,6%
lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2020, tăng 327 nghìn người so với năm
2019. Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng 949 nghìn người, đạt
1,068 triệu người, tăng gần gấp đôi so với năm 2019[1]. Bảo hiểm y tế giúp giảm chi trực tiếp từ tiền túi
hộ gia đình cho dịch vụ y tế, góp phần tạo
nên sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là đối với nhóm người yếu
thế trong xã hội. Hằng năm, Quỹ bảo
hiểm y tế đã chi trả phí khám chữa bệnh lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Tỷ
lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đến năm 2020 đạt 90,7% tăng mạnh so với năm
2015 (76,5%) vượt mục tiêu đề ra (80%)[7, tr. 48].
Bốn
là, các dịch vụ xã hội cơ bản được chú trọng đầu tư, phát triển
Nhà
nước triển khai nhiều chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em hộ nghèo, dân tộc
thiểu số, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để các em đều được đến trường. Phổ cập
giáo dục từ mầm non đến cấp trung học cơ sở được hoàn thành trước thời hạn.
Chương trình đổi mới giáo dục phổ thông được triển khai theo hướng phát triển
năng lực, phẩm chất của học sinh. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được đổi mới, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động
và hội nhập quốc tế.
Công
tác y tế, chăm sóc sức khỏe của người dân được tăng cường, chất lượng dịch vụ
khám, chữa bệnh được nâng cao và từng bước giải quyết tình trạng quá tải bệnh
viện tuyến trên. Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương và mạng
lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển; đã từng bước kiểm soát
được đại dịch COVID -19. Tỷ lệ bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 8,2 bác sĩ năm
2016 lên 9 bác sĩ năm 2020, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra[7, tr. 46]. Trong khám,
chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân đã được ứng dụng công nghệ thông
tin hiện đại, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh
trực tuyến, từ xa. Nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng.
Hệ
thống thông tin và truyền thông phát triển hiện đại, rộng khắp góp phần rút
ngắn khoảng cách và bảo đảm tiếp cận thông tin của nhân dân giữa các vùng miền;
Mạng lưới cấp nước sạch được quan tâm đầu tư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện
khó khăn, tỷ lệ nông thôn được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia tăng
từ 38,7% (năm 2012) lên 52% (năm 2018).
Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nên việc thực hiện chính sách
an sinh xã hội đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: Hệ thống
pháp luật về an sinh xã hội chưa theo kịp với đòi hòi của nền kinh tế thị
trường; các nguy cơ về rủi ro kinh tế, xã hội và môi trường có xu hướng tăng;
Sự phân hóa giàu nghèo, xu hướng già hóa dân số, thất nghiệp, ốm đau, bệnh tật,
thiên tai... luôn là những nguy cơ trực tiếp và tiềm ẩn đối với quá trình thực
hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3.
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện chính sách an sinh xã hội trong thời
gian tới
Thứ
nhất, nâng cao nhận thức và năng lực thực hiện chính sách an sinh xã hội của
đội ngũ cán bộ các cấp
Nâng
cao nhận thức về an sinh xã hội giúp khắc phục những tư tưởng cục bộ, tham
nhũng, tiêu cực... Từ đó, phát huy tác dụng của các chính sách cứu trợ xã hội
tốt hơn. Các cấp chính quyền nâng cao nhận thức và năng lực về an sinh có ý
nghĩa rất quan trọng giúp định hướng, phổ biến đúng đắn quan điểm, chủ trương
của Đảng để người dân hiểu và tự giác tham gia chính sách an sinh xã hội. Đồng
thời, phát huy tối đa nguồn lực của người dân vào các quỹ an sinh xã hội, giảm
nhẹ gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. Nâng cao năng thực thực hiện chính sách
an sinh xã hội của đội ngũ cán bộ các cấp phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục nhằm kịp thời giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của quần chúng
nhân dân, cán bộ, đảng viên trong quá trình làm việc cũng như trong đời sống.
Kiên quyết xử lý đúng quy định của pháp luật, không dung túng, bao che đối với
cán bộ, đảng viên vi phạm.
Thứ
hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả
Tiếp
tục đổi mới hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên
quan đến an sinh xã hội theo hướng kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế,
gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội công bằng, bảo đảm an sinh xã
hội. Bổ sung, hoàn thiện pháp luật về an sinh số, ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật nhằm bảo đảm khung pháp lý đầy đủ, phù hợp, hiệu lực, khả thi phù hợp
với giai đoạn phát triển mới. Ưu tiên hoàn thiện các chính sách đối với người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, tránh
cào bằng, hỗ trợ theo nhu cầu và tạo động lực phấn đấu cho đối tượng thụ hưởng,
khuyến khích người dân chủ động, tích cực. Khắc phục triệt để những tồn tại,
hạn chế, bất cập trong thủ tục hành chính nhằm tạo cơ sở hành lang pháp lý đầy
đủ nhất có thể cho lĩnh vực an sinh xã hội.
Chi trả tiền hỗ trợ Covid-19 cho người dân ở Hà Nội. (Ảnh: tuyengiao.vn/)
Thứ
ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chủ trương, chính sách an
sinh xã hội
Tăng
cường kiểm tra, giám sát nhằm nắm bắt kịp thời khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện, phòng ngừa vi phạm pháp luật và đánh giá hiệu quả thực hiện
các quy định pháp luật về an sinh xã hội. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung chính
sách mới, tích cực triển khai, thực hiện hiệu quả các gói hỗ trợ nhằm bao phủ
những khoảng trống trong chính sách an sinh xã hội; hoàn thiện hệ thống theo
dõi giám sát cho từng lĩnh vực, thực hiện nghiêm túc các hoạt động báo cáo định
kỳ, cập nhật đầy đủ và chính xác các số liệu qua các cấp quản lý; không phê
duyệt, cấp kinh phí khi không báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp thời.
Kết
luận
Bảo đảm
an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt
Nam. Trải qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, các trụ cột an sinh xã hội đều được
quan tâm đặc biệt góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho công
cuộc đổi mới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho
thấy, những quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò, mục tiêu và hệ thống giải
pháp đẩy mạnh thực hiện hiệu quả an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế đã trở thành cơ sở lý luận cho việc hoạch định và thực hiện chính
sách an sinh xã hội trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ngân Anh (2021), Sáu dấu ấn về an sinh xã hội của năm 2020, Báo Nhân dân điện tử, ngày 1-1-2021, https://nhandan.vn
[2]
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự
thật, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời
kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.