Tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tất cả các lớp đào tạo cao cấp lý luận chính trị, đại học và sau đại học đều được triển khai theo hình thức trực tuyến trên nền tảng công nghệ số hiện đại, bảo mật - Ảnh: baochinhphu.vn
1. Chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị là tất yếu
Chuyển đổi số là việc sử dụng các công
nghệ số để thay đổi mô hình tổ chức, hoạt động nhằm tạo ra những cơ hội, lợi
ích và giá trị mới. Đối với giáo dục - đào tạo, chuyển đổi số là quá trình
chuyển việc truyền thụ kiến thức chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng
giải sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học
tập mọi lúc, mọi nơi trong môi trường số; cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra
xã hội học tập và học tập suốt đời. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ IoT, Big
Data, AI, SMAC (mạng xã hội, di động, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây)
đang hình thành nên hạ tầng giáo dục số. Tại Việt Nam, Nghị quyết số 52-NQ/TW
của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đã khẳng định: “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở
áp dụng công nghệ số.... Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa
trên các nền tảng số”. Ngày 03-6-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
745/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030”, với mục tiêu đưa nước ta gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về
Chính phủ điện tử (EGDI). Riêng về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chuyển đổi số
tập trung “phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công
nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo
trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình
thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới
đào tạo cá thể hóa...”.
Trong thời gian qua, tại Việt Nam, chuyển
đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo đã từng bước được thực hiện và đạt
được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong GDLLCT chuyển đổi số vẫn là điều
mới mẻ với nhiều cơ sở đào tạo. Theo khảo sát của Đề án “Đổi mới giảng dạy, học
tập các môn lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân” do Ban Tuyên
giáo Trung ương tiến hành năm 2014, trong hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam
gần như chưa triển khai thực hiện (kể cả thí điểm) hình thức đào tạo lý luận chính
trị trực tuyến. Từ cuối năm 2019, khi đại dịch Covid-19 xuất hiện, việc giảng
dạy, học tập của tất cả các cơ sở giáo dục - đào tạo bị gián đoạn. Trong bối
cảnh đó, nhiều học viện, cơ sở đào tạo, GDLLCT đã chuyển đổi sang hình thức dạy
và học trực tuyến thay cho hình thức giảng dạy truyền thống. Điển hình, tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tất cả các lớp đào tạo cao cấp lý luận
chính trị, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và cử nhân đều được triển khai theo hình
thức trực tuyến trên nền tảng công nghệ số hiện đại, bảo mật. Cùng với đó, Học
viện cũng đẩy mạnh tổ chức các hội thảo khoa học, hội nghị trực tuyến để bảo
đảm yêu cầu vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, vừa phòng chống dịch bệnh
Covid-19. Thành công bước đầu cho thấy, việc áp dụng công nghệ thông tin trong
GDLLCT có nhiều ưu điểm, có thể phát huy nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
2. Những điều kiện cho chuyển đổi số
trong giáo dục lý luận chính trị
Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất Khung
chuyển đổi số cấp tổ chức, doanh nghiệp bao gồm 06 thành tố, điều kiện: chiến
lược, công nghệ, tổ chức, nhân lực, văn hóa, khách hàng. Tại Việt Nam, “Chương
trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cũng đã đề
cập 06 yếu tố quyết định đến quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam bao gồm: nhận
thức, sự tham gia của người dân, thể chế và công nghệ, hợp tác, an ninh mạng,
sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp.
Trên cơ sở Chương trình Chuyển đổi số
quốc gia, có thể đề xuất điều kiện Khung bảo đảm áp dụng chuyển đổi số trong
GDLLCT (áp dụng cho bậc trung cấp, cao cấp lý luận chính trị) bao gồm những
thành tố sau (Hình 1).
Một là, nhận thức. Chuyển
đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Để thực hiện chuyển đổi số trong
GDLLCT, trước hết đòi hỏi có sự quyết tâm thay đổi của người đứng đầu. Bên cạnh
đó, cần có sự đồng bộ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm của cán bộ, giảng
viên, học viên, địa phương, cơ quan... trong triển khai thực hiện chuyển đổi số
trong các hoạt động GDLLCT.
Hai là, khung luật pháp, chính sách về
chuyển đổi số. Cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý
phải được hoàn thiện tạo thuận lợi cho chuyển đổi số trong giáo dục nói chung
liên quan đến chuyển đổi số, an ninh mạng; quy định về học liệu như sở hữu trí
tuệ, bản quyền tác giả. Đối với GDLLCT, cần kịp thời xây dựng và điều chỉnh các
chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; chương trình
giảng dạy - học tập lý luận chính trị trực tuyến; khảo thí, kiểm định chất
lượng việc giảng dạy - học tập và công nhận kết quả học GDLLCT trực tuyến.
Ba là, chiến lược. Cơ
sở đào tạo cần xây dựng chiến lược chuyển đổi số trong GDLLCT, tập trung vào
các nội dung chủ đạo: số hóa thông tin quản lý (giảng viên, học viên, cơ sở đào
tạo), triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng Big Data để quản lý,
điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định quản lý; chiến lược hợp tác giữa các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm
tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học bao gồm: số hóa học liệu (giáo trình, bài
giảng điện tử, hệ thống quản lý e-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư
viện số, hệ thống hội thảo trực tuyến. Trong đó, thành tố quan trọng có tính
quyết định là sự đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập
lý luận chính trị sao cho phù hợp với thực tiễn, bối cảnh mới. Kết luận số
94-KL/TW ngày 28-3-1994 của Ban Bí thư đã chỉ rõ: “Xác định việc đổi mới từ nội
dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, xây dựng đội ngũ giảng viên, giáo
viên trong quá trình học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân
là nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược”.
Bốn là, công nghệ và an ninh mạng. Nền
tảng hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng
bộ bảo đảm việc quản lý, dạy - học; bảo đảm môi trường mạng thông suốt, ổn
định, an toàn thông tin. Đi kèm với thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần
mềm, các nền tảng (platform) để mọi hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp
diễn ra trên đó, bảo đảm tính tương thích và kết nối với nhau. Ngoài ra, bảo
đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững.
Mọi thiết bị, sản phẩm, phần mềm, hệ thống thông tin, dự án đầu tư về công nghệ
thông tin đều có cấu phần bắt buộc về an toàn, an ninh mạng ngay từ khi thiết
kế.
Năm là, nguồn nhân lực. Với
bất kỳ lĩnh vực gì, thành công trước hết phụ thuộc vào đội ngũ nhân lực. Vì
vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên, chuyên viên
quản lý đào tạo, IT... với đầy đủ kiến thức về chuyển đổi số, kỹ năng về công
nghệ thông tin, an toàn thông tin, khai thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng
phục vụ công việc dạy - học cũng như văn hóa ứng xử, xử lý tình huống trên môi
trường mạng. Việc giảng dạy, học tập trên môi trường mạng khác hoàn toàn với
giảng dạy, học tập truyền thống, do vậy người giảng viên cần linh hoạt, sáng
tạo trong xây dựng bài giảng hấp dẫn, mang hơi thở của cuộc sống, tạo hứng thú
cho người học, bảo đảm sự tương tác giữa giảng viên và học viên.
Sáu là, sự tham gia của người học và các
bên liên quan. Mục tiêu quan trọng của chuyển đổi số
trong GDLLCT là xây dựng thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính
tự giác, ý thức về học tập suốt đời của học viên. Do vậy, quá trình chuyển đổi
số bắt buộc phải có sự tham gia và gắn kết của người học trong suốt quá trình
học tập, giảng dạy. Bên cạnh đó, do đặc thù của GDLLCT, quá trình chuyển đổi số
còn đòi hỏi sự đồng bộ, hợp tác chặt chẽ của cả hệ thống chính trị, ở các cấp,
bao gồm các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức... trong
xây dựng chương trình giảng dạy, hỗ trợ về mặt công nghệ, hợp tác trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ.
3. Thực tiễn triển khai tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và một số khuyến nghị
Trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 diễn
biến phức tạp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh ứng dụng
chuyển đổi số trong các lĩnh vực công tác (đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản
lý điều hành), nhanh chóng chuyển đổi phương thức quản lý và thực hiện nhiệm vụ
từ trực tiếp sang trực tuyến, hướng dẫn các trường chính trị tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tổ chức giảng dạy, quản lý đào tạo bằng hình thức trực
tuyến bảo đảm hoàn thành “mục tiêu kép” vừa hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên
môn, vừa phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả.
Để triển khai đồng bộ, Học viện đã chú
trọng đầu tư cho nội dung chuyển đổi số với nhiều hạng mục như: nâng cấp Cổng
thông tin điện tử; xây dựng thư viện số, thư viện điện tử; xây dựng trung tâm
điều hành thông minh; mua sắm trang thiết bị cầu truyền hình, lắp đặt hệ thống
mạng dành riêng cho cầu truyền hình; mua bản quyền phần mềm microsoft teams;
tập huấn cho giảng viên, v.v..
Bên cạnh đó, hệ thống các phần mềm quản
lý văn bản liên thông, hệ thống hòm thư công vụ, chữ ký số, hệ thống camera an
ninh, máy chiếu, camera tại các phòng học được lắp đặt đã đóng góp tích cực vào
việc nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng và các hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ, quản lý học viên, bảo đảm an ninh, an toàn của cơ quan. Đây là những
điều kiện, tiền đề quan trọng để Học viện chủ động chuyển đổi số trong lĩnh vực
đào tạo, xây dựng Học viện thông minh.
Tuy nhiên, xét theo khung bảo đảm áp dụng
chuyển đổi số trong GDLLCT (áp dụng cho bậc cao cấp lý luận chính trị) đã được
xây dựng (tại hình 1), chuyển đổi số trong đào tạo lý luận chính trị tại Học
viện còn những bất cập về trang thiết bị công nghệ thông tin, đường truyền;
việc mã hóa, số hóa dữ liệu còn chậm, chưa thống nhất; hệ thống các phần mềm
phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý đào tạo chưa đồng bộ, chưa
liên thông, còn tình trạng mỗi đơn vị sử dụng một phần mềm riêng (ví dụ phần
mềm quản lý đào tạo, quản lý điều hành tác nghiệp...). Trình độ sử dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, dạy và học của không ít cán bộ, giảng viên, nhân
viên và học viên còn hạn chế. Các quy định, quy chế bảo đảm cho quá trình xây
dựng và thực thi chuyển đổi số của Học viện còn thiếu.
Để áp dụng chuyển đổi số trong GDLLCT,
cần thực hiện một số công việc chính sau:
Một là, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình này. Cần tăng cường công tác
tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chủ trương chuyển đổi số quốc gia, chuyển
đổi số tại Học viện trong từng lĩnh vực công tác, đặc biệt trong quản lý điều
hành, dạy và học, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thái độ, từ đó nâng
cao trách nhiệm của các chủ thể.
Hai là, tiếp tục triển khai
mô hình quản trị Học viện thông minh vào thực tiễn; đẩy mạnh quá trình mã hóa,
số hóa toàn bộ cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên
cứu khoa học, nhất là hệ thống giáo trình, tài liệu, sách tham khảo, chuyên
khảo, bài giảng, ngân hàng đề thi, đáp án; các đề tài, sáng kiến khoa học trong
các kho quản lý dữ liệu, v.v.. Tiếp tục đầu tư, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
số, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng dạy - học và nghiên cứu khoa học đồng
bộ, điều hành tác nghiệp hiện đại, đồng bộ có thể hoạt động trực tiếp và trực
tuyến, nhất là hệ thống phòng học, phòng họp, hội thảo, phòng bảo vệ luận văn,
luận án trực tuyến, thư viện điện tử... Đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm quản lý
hiện đại, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các công nghệ 4.0
(AI, blockchain, phân tích dữ liệu...) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra
quyết định quản lý đào tạo một cách nhanh chóng, chính xác, thuận tiện.
Ba là, chuẩn bị các điều kiện về nguồn
lực tài chính, nguồn nhân lực, hạ tầng thiết bị, an ninh mạng phục vụ cho
chuyển đổi số. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội
ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên, có khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác quản lý, giảng dạy.
(Nguồn: lyluanchinhtri.vn)