Thứ Tư, ngày 16/11/2022, 00:21

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

PGS, TS. Trương Quốc Chính
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Chủ nghĩa Mác - Lênin cho đến nay vẫn là lý luận cách mạng tiên tiến nhất về sự nghiệp giải phóng con người trên toàn thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động và hoạt động. Đây chính là nguyên nhân cơ bản nhất cho mọi thành công của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống nền tảng ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận sáng tạo về cách mạng Việt Nam trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đặc thù, nhưng luôn là một thể thống nhất không thể tách rời với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Từ khóa: chủ nghĩa Mác - Lênin; Đảng Cộng sản Việt Nam; nền tảng tư tưởng của Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh. 

V.I.Lênin trong Cách mạng Tháng Mười Nga 1917. 

Đặt vấn đề

Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến nay đã chứng minh rằng mọi thắng lợi, thành quả mà đất nước có được đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam; gắn liền với việc lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm lý luận tiền phong dẫn đường, chỉ lối. Tuy nhiên, hiện nay có những tư tưởng lệch lạc, sai trái về vấn đề này cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời và nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Có thể nói: “cả về lý luận và cơ sở thực tiễn đều chỉ ra rằng, đó là tư tưởng sai lầm từ phương pháp tiếp cận vấn đề đến cái nhìn sai lệch, thiếu toàn diện đối với lịch sử và thực tiễn”[3, tr.63]

Bài viết đóng góp một số luận cứ cho việc phản bác tư tưởng lệch lạc đó.

1. Sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin

Những mơ ước về một xã hội công bằng, bình đẳng và hạnh phúc là mong muốn, là mục tiêu phấn đấu của tất cả những người lao động, yêu chuộng tự do, bình đẳng, hòa bình trên toàn thế giới, không phải của riêng ai, quốc gia nào. Trong lịch sử, những mong muốn đó đã được định danh bằng những thuật ngữ như “Utopia”, chủ nghĩa xã hội (CNXH) không tưởng…, và với hệ thống lý luận do C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin xây dựng (chủ nghĩa Mác - Lênin) thì đó là CNXH khoa học. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là sự phát triển tiếp nối hợp quy luật của dòng chảy lịch sử tư tưởng nhân loại, là sự phản ánh chân thực hiện thực khách quan, đặc biệt là thực tiễn lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thập niên cuối thế kỷ XX, sự tan rã, sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu được xem là sự kiện làm rung chuyển thế giới. Các thế lực thù địch, với các luận điệu chống phá, các quan điểm sai trái cả ở trong và ngoài nước đã tận dụng cơ hội này để nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là không đúng, không tưởng hay ít ra là không phù hợp, hoặc đã lỗi thời. Rất nhiều các nghiên cứu toàn diện, sâu sắc và khách quan sau đó đều chỉ ra rằng: “Sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu trong những năm cuối thế kỷ XX là tổn thất lớn của phong trào cách mạng thế giới, song không làm thay đổi tính chất của thời đại; Loài người “nhất định sẽ tiến lên CNXH” theo quy luật tiến hóa của lịch sử”[4, tr.5]; Lý luận tiên phong dẫn đường cho sự “tiến lên” đó vẫn không thể là gì khác ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin bởi vì đây là học thuyết, là hệ thống lý luận khoa học mở, được bổ sung, phát triển liên tục, có sức sống bền vững và do đó không lỗi thời và càng không thể bị coi là lỗi thời. Điều này thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

Tính khoa học và cách mạng: “tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở sự thống nhất giữa nội dung của chân lý khách quan và hình thức là hệ thống lôgích chặt chẽ, hoàn thiện”[1, tr.174-175]; tính khoa học thống nhất với tính cách mạng: “Chỉ có lý luận khoa học mới có thể chỉ đạo giai cấp vô sản làm cách mạng thắng lợi. Và cũng chỉ trong thực tiễn cách mạng của quần chúng mới chứng minh và bảo vệ được tính khoa học, tính chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và đồng thời phát triển lên một tầm cao mới”[1, tr.175]; mối quan chặt chẽ hệ giữa chủ nghĩa Mác với khoa học tự nhiên đương thời (thuyết Tiến hóa, thuyết Tế bào, định luật Bảo toàn chuyển hóa năng lượng).

Tính hệ thống của chủ nghĩa Mác - Lênin được quy định từ yêu cầu giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể loài người khỏi sự áp bức, bóc lột: “Hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trước hết do đòi hỏi của tính mục đích của nó, nhằm giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể loài người khỏi sự áp bức, bóc lột”[1, tr.177]. Tính hệ thống này còn được thể hiện ở chỗ nó được trình bày theo một trật tự chặt chẽ, tuân theo các quy luật của logic học. Toàn bộ các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống thống nhất và đều có cơ sở phương pháp luận: “Cơ sở phương pháp luận của hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là triết học Mác - Lênin. Bản thân triết học Mác - Lênin là một thể thống nhất của nhiều bộ phận. Đó là sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng”[1, tr.180].

Tính thực tiễn, quan điểm thực tiễn là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin và hơn nữa học thuyết này được hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn: “Việc xác lập quan điểm thực tiễn đã tạo ra một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận và hình thành một thế giới quan mới cho giai cấp công nhân. Thực tiễn là cơ sở hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin”[1, tr.182].

Tính phê phán, tính cách mạng, học thuyết này là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản để phê phán xã hội tư bản và hướng đến xây dựng xã hội mới, phát triển cao hơn về chất -  xã hội XHCN: “Tính phê phán, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trước hết chủ nghĩa Mác được coi là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản phê phán xã hội cũ - xã hội tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN”[1, tr. 185]. Chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên cơ sở phép biện chứng mà một trong những nội dung cốt lõi của nó là nguyên lý về sự phát triển - nội dung thể hiện tính cách mạng triệt để nhất và sâu sắc nhất: “Phép biện chứng đã cung cấp cho giai cấp vô sản một công cụ nhận thức khoa học, nhìn nhận mọi sự vật và hiện tượng đều luôn vận động và phát triển, xã hội tư bản không phải là tồn tại vĩnh viễn, nó có quá trình sinh ra, phát triển và cũng sẽ tiêu vong”[1, tr.185].

Tính sáng tạo, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết, kế thừa, phê phán những thành tựu lý luận và thực tiễn của nhân loại để xây dựng nên chủ nghĩa Mác; tính sáng tạo này còn bộc lộ rõ nhất thông qua hai phát kiến có giá trị vạch thời đại của C.Mác là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư: “Sự sáng tạo thể hiện rõ nhất trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư”[tr.186]; các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo trong giai đoạn CNTB phát triển thành chủ nghĩa đế quốc: “V.I.Lênin đã đi sâu phân tích đặc điểm của thời đại và chỉ ra CNTB đã phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ở giai đoạn này CNTB có nhiều biểu hiện khác với giai đoạn CNTB phát triển tự do”[1,tr.187].

Tính nhân văn, mục tiêu tối cao và cuối cùng của chủ nghĩa Mác - Lênin là hướng đến sự giải phóng con người: “Cần phải thấy rằng, mục tiêu giải phóng con người được nhất quán từ đầu cho đến cuối cùng trong suốt quá trình lịch sử hình thành phát triển của chủ nghĩa Mác”[1, tr.193]. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đề ra mục tiêu mà đã xác định cách thức, con đường, phương hướng để con người có thể tự giải phóng mình: “Bản chất nhân văn của chủ nghĩa Mác không chỉ là đề ra mục tiêu giải phóng con người, loài người khỏi áp bức, bóc lột mà còn ở chỗ chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, phát hiện ra bản chất của con người và những quy luật phát triển của xã hội loài người. Trên cơ sở lý luận đó, chủ nghĩa Mác đã xác định được phương hướng xây dựng một xã hội mới, thực hiện quyền tự do phát triển của mỗi con người”[1, tr.193]. 

Sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được chứng minh bởi thời gian, bởi thực tế lịch sử không thể phủ nhận. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm cho CNXH từ không tưởng trở thành khoa học; với Cách mạng Tháng Mười Nga (được soi sáng bởi lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin), CNXH từ lý tưởng (lý thuyết) trở thành hệ thống XH hiện thực; Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của việc xây dựng hệ thống CNXH hiện thực, và cũng qua thực tiễn xây dựng hệ thống CNXH hiện thực, lý luận về xã hội XHCN được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển. Có thể nói: “vận mệnh của học thuyết Mác-Lênin về CNXH nói riêng, của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung gắn liền với vận mệnh của CNXH hiện thực, ngược lại sự phát triển của CNXH hiện thực không tách rời sự phát triển của lý luận Mác - Lênin”[4, tr.523].

Thực tế lịch sử cho thấy CNXH hiện thực còn nhiều khiếm khuyết (do hạn chế lịch sử và sai lầm chủ quan) nhưng đã và hiện tại vẫn thể hiện tính ưu việt của nó. “Sự khủng hoảng của hệ thống XHCN cuối thế kỷ XX chỉ chứng tỏ rằng: CNXH “không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo”, mà là “một phong trào hiện thực”, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói, thông qua thực tiễn mà con đường đi tới mục tiêu lý tưởng sẽ được tìm tòi sáng tạo ra”[3, tr.524]; sự khủng hoảng của CNXH hiện thực ở Liên xô, Đông Âu là cái giá phải trả cho sai lầm chủ quan, nhưng cũng “nhờ đó” CNXH hiện thực được đổi mới, tồn tại và tiếp tục phát triển; “cải tổ” thất bại hay “đổi mới”, “cải cách” thành công là tùy thuộc vào vai trò của nhân tố chủ quan, trong đó việc nắm vững vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là điều kiện tiên quyết[4, tr.524].

2. Cách mạng Việt Nam gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

(Ảnh: http://thinhvuongvietnam.com)

Trong khi Liên xô và các nước XHCN Đông Âu khủng hoảng, tan rã thì ở Việt Nam, Trung Quốc, công cuộc xây dựng xã hội thông qua đổi mới (Việt Nam); cải cách, mở cửa (Trung Quốc) có được những thành tựu rất đáng tự hào. Thực tế này đặt ra một câu hỏi: tại sao Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, cũng như Việt Nam, Trung Quốc đều là những quốc gia xây dựng đất nước, thể chế chính trị, kinh tế, xã hội theo lý luận nền tảng, ngọn cờ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin mà Liên Xô và Đông Âu thì thất bại, còn Việt Nam, Trung Quốc lại thành công ?. Câu trả lời là, Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến trình cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới từ 1986 đã luôn lựa chọn, xác định và kiên định nền tảng tư tưởng, ngọn cờ lý luận với tư cách hệ tư tưởng, chủ thuyết bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước là chủ nghĩa Mác - Lênin, và sự vận dụng tài tình, phù hợp chủ nghĩa ấy vào điều kiện đặc thù Việt Nam - tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống thống nhất, trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận toàn diện, sâu sắc, khoa học về cách mạng Việt Nam; là lăng kính mà qua đó, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được tiếp biến, bổ sung và phát triển sáng tạo phù hợp điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam và được hiện thực hóa thành công: “Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin và chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh”[2, tr.65].

Trong cuốn Chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết về sự phát triển và sáng tạo không ngừng, tác giả Trần Nhâm đã phân tích sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN để thấy sự vận dụng vừa sáng tạo vừa thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng của Người và cho rằng đó là một mẫu mực về việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể của phép biện chứng duy vật. Theo đó, Việt Nam quá độ lên CNXH từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ qua chế độ TBCN, trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lênin mới chỉ dự báo về sự quá độ này, rất ít những chỉ dẫn và kinh nghiệm thực tiễn. Điểm xuất phát trong tư tưởng Hồ Chí Minh ở đây là nhận định “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”[5, tr.13]. Từ điểm xuất phát này, Người nhấn mạnh thực chất việc quá độ bỏ qua chế độ TBCN sẽ diễn ra suốt cả thời kỳ quá độ, và do lực lượng sản xuất ở trình độ rất thấp, nước ta trong lịch sử đã không trải qua và trên thực tế chưa hoàn thành cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XVIII, vì thế bỏ qua chế độ TBCN không phải là bỏ qua tất cả, bất chấp những gì mà CNTB đã tạo ra, nhất là về lực lượng sản xuất.

Mặt khác, bỏ qua chế độ TBCN, không trải qua bước ngoặt cách mạng về tư duy, nhận thức, về sự cải biến các quan hệ xã hội, pháp luật, văn hóa với tư cách cơ sở cho sự hình thành cá nhân - công dân trong mối quan hệ với xã hội - nhà nước, cái mà CNTB đã có thời gian thực hành rất lâu, vì thế xã hội Việt Nam còn khá nhiều tàn dư về ý thức xã hội (trong tâm lý, thói quen, tập quán, truyền thống làng xã) tiền TBCN (phong kiến, tiểu nông, thực dân) - những thứ này chi phối trong tổ chức, bộ máy, phương pháp, phong cách làm việc…, chúng là lực cản không nhỏ (cả hữu hình và vô hình), cản trở sự phát triển lành mạnh nền dân chủ XHCN. Từ đó, Người xác định nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH.

Quá độ mà C.Mác quan niệm là quá độ trực tiếp từ nước TBCN phát triển cao lên CNXH; quá độ mà V.I.Lênin thực hiện là từ một nước TBCN trung bình, còn quá độ ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là quá độ bỏ qua - chưa hề có tiền lệ trong lịch sử, hoàn toàn mới, do đó, đây là quá trình khai phá, tìm đường (chưa hề có giải thích, chỉ dẫn trực tiếp, cụ thể của các nhà kinh điển) và cũng vì vậy nên những nghiền ngẫm, suy tư của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự sáng tạo đặc biệt. Sự thống nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin ở đây là kế thừa quan điểm kinh điển về tính tất yếu, tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của thời kỳ quá độ. Sự sáng tạo là ở chỗ, xác định quá độ của Việt Nam thậm chí còn khó khăn, phức tạp và lâu dài hơn bởi đó là quá độ gián tiếp, quá độ bỏ qua với những đặc điểm hết sức đặc thù của riêng Việt Nam và phải vừa làm, vừa điều chỉnh thông qua quá trình liên tục tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận mới có thể thành công.

Có thể lấy nhận xét của Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh của UNESCO và Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam năm 1990 để nói về sự vận dụng sáng tạo của Người: “Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng XHCN sáng tạo vĩ đại và một người hành động. CNXH của Người không bè phái, cũng không giáo điều mà nhân đạo và nhân loại” [8, tr.157]. Đánh giá về sự sáng tạo, nhưng trên cơ sở thống nhất của tư tưởng Hồ chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, GS Trần Nhâm cũng nêu quan điểm của mình: “Những quan niệm về CNXH của Hồ Chí Minh như đã biết là phù hợp với quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH, phù hợp với con đường cách mạng của Việt Nam và thuận với trào lưu phát triển của thời đại” [6, tr.368].

Như vậy có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh không thể bị cắt rời khỏi tiền đề có tính thế giới quan, phương pháp luận chung nhất đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Hiện nay có quan điểm lệch lạc, sai trái cho rằng nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh mà không cần chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là việc làm siêu hình, cơ học và thực chất chỉ nhằm phá hoại cơ sở và tính thống nhất, hệ thống của nền tảng lý luận căn cốt mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn - điều này cũng giống như việc muốn có kết quả của việc trồng cây mà lại không cần bàn đến vấn đề chăm bón ở gốc hay: “Thừa nhận con đường XHCN của cách mạng nước ta nhưng không thừa nhận vai trò nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin khác nào ở trên tầng cao của tòa nhà mà không thừa nhận nền móng của tòa nhà, mong muốn thu hoạch trái cây mà không quan tâm đến gốc rễ của cây” [3, tr.65].

Xây dựng CNXH là một công việc hoàn toàn mới, không có sẵn công thức hay tiền lệ; mô hình đã có thì đã bị thực tế chứng minh là có nhiều sai lầm, khuyết tật (chủ yếu do nguyên nhân chủ quan - hiểu sai hoặc làm biến dạng lý luận kinh điển gốc). Việc Việt Nam, Trung Quốc - những quốc gia XHCN có công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa thành công do nhận thức và vận dụng đúng, phù hợp những nguyên lý, quy luật và lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng, phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là những minh chứng không thể chối cãi. Đã có nhiều sai lầm, khuyết điểm, khuyết tật của công cuộc xây dựng CNXH trên thế giới, mà không phải Việt Nam không mắc phải, nhưng đó là những vấn đề khách quan, khó tránh của việc tìm tòi, phát triển, xây dựng cái mới. Nhất là Việt Nam lại xây dựng XH mới - xã hội XHCN từ điểm xuất phát thấp với vô số khó khăn, rào cản cả chủ quan và khách quan, thêm vào đó là sự thù địch, chống phá quyết liệt từ nhiều phía. Vì vậy không thể đổ lỗi cho học thuyết Mác - Lênin về những khó khăn, hạn chế và sai lầm mà chủ yếu là chủ quan.

Kết luận

Không phải chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời mà nhiều nhận thức, nhận định, đánh giá chủ quan về con đường xây dựng CNXH đã lỗi thời; nhiều cách hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin vốn đã ấu trĩ, giản đơn nhưng chậm hoặc không được điều chỉnh kịp thời; thậm chí nhiều suy tư tư biện do suy diễn một cách chủ quan, thiếu căn cứ lại được cho là của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác - Lênin được tiếp biến vào Việt Nam và trở thành cẩm nang, vũ khí lý luận cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam giành độc lập dân tộc, xây dựng, đổi mới, phát triển quốc gia nhờ lăng kính tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cả hai bộ phận này luôn là một thể thống nhất, không thể tách rời, đã và vẫn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

[1] Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

[2] Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

[3] Vũ Văn Hiền (Chủ biên) (2020), Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên) (2009), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Trần Nhâm (2011), Chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết về sự phát triển và sáng tạo không ngừng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên) (2002), Thời đại chúng ta và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[8] UNESCO và Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1990), Kỷ yếu hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Đọc thêm

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân

Tác giả: Ngô Hảo Nhi

(GDLL) - Giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân là hai nhiệm vụ có mối quan hệ chặt chẽ, đặt ra thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết nhận diện các luận điệu sai trái, lệch lạc và đưa ra các luận cứ, luận chứng cùng thực tiễn nhằm đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.

Vững bước đi theo Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu của Đảng và Dân tộc Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Thị Dung - Kiều Hưng

(GDLL) - Chủ nghĩa Mác - Lênin mãi luôn là thành tựu vĩ đại trong sự phát triển của tư duy và trí tuệ loài người về lý luận phát triển xã hội. Lý luận của học thuyết này được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện thực tiễn cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam tiến lên hiện thực hóa khát vọng hùng cường. Bài viết khẳng định sự lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và dân tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Tác phẩm “Thường thức chính trị” vào xây dựng Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thanh

(GDLL) - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết, trong số đó “Thường thức chính trị” là tác phẩm nổi bật trình bày về nội dung xây dựng Đảng. Bài viết phân tích nội dung xây dựng Đảng trong tác phẩm và nêu lên những định hướng vận dụng vào công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp nối truyền thống tự hào, vẻ vang 70 năm hình thành và phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng - giá trị vận dụng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tác giả: Lê Tuấn Vinh - Nguyễn Thị Thanh Nhàn

(GDLL) - Bài viết khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đánh giá khái quát việc thực hiện nội dung này trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu lên những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy giá trị cốt lõi này trong công tác xây dựng Đảng thời gian tới.

Phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân

Tác giả: PGS.TS. Lê Văn Cường

(TG) - Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho tất cả Đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở. Thời gian qua, nội dung phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng: “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng từng bước được nâng lên, trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, đặc biệt là Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về vấn đề này”(1).