Từ khóa: An ninh con người; bảo đảm an ninh con người; pháp luật về bảo đảm an
ninh con người; quyền con người; Việt Nam.
Lễ Chào cờ trên đảo Song Tử Tây
(huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa)
(Ảnh:
https://tuyengiao.vn)
Đặt vấn đề
Xuất phát từ những mối
đe dọa như: Thiên tai, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, nghèo đói, tội
phạm…; những thay đổi về cơ chế quản lý, phát triển khoa học công nghệ, quá
trình đô thị hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế… an ninh con người (ANCN) được
xác định là một trong những vấn đề toàn cầu. Nhận thức sâu sắc về những thách
thức phát sinh trong quá trình phát triển, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Giữ
vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con
người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”[4, tr.331]. Đây là một trong những định hướng
quan trọng cho việc xây dựng chiến lược, kế hoạch hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm bảo đảm ANCN ở Việt Nam hiện nay.
1. Pháp luật về bảo đảm an ninh con người
Theo “Báo
cáo phát triển con người” năm 1994 của Liên hợp quốc,ANCN
gồm hai khía cạnh chính. Đầu tiên, nó có nghĩa là an toàn
trước những mối đe dọa kinh niên như nạn đói, bệnh tật và sự đàn áp. Thứ
hai, nó có nghĩa là bảo vệ chống lại sự phá vỡ đột ngột và gây tổn
thương đối với mẫu hình cuộc sống hằng ngày - cho dù trong gia đình, trong công
việc hay trong cuộc sống.
An ninh con người
bao gồm 7 thành phần: An ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an
ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị[2, tr.23]. Bảo đảm ANCN được đặt ra trong bối
cảnh những biến đổi nhanh chóng của tự nhiên và xã hội đang đe dọa tới cuộc
sống, sự an toàn của con người. Điều đáng nói là những “biến đổi” đó lại được
tạo ra từ chính hành vi của con người, trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Chẳng hạn, khoa học và công nghệ do con
người tạo ra để đáp ứng nhu cầu của con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển nhưng sự phát triển của nó lại đe dọa ANCN từ nhiều góc độ, như: An toàn
thông tin, nguy cơ thất nghiệp do tình trạng máy móc thay thế con người, tác
động hủy diệt môi trường sống…
Vì vậy, bảo đảm ANCN là định hướng, kiểm soát
hành vi của con người, các thiết chế và chính phủ, bảo
vệ các giá trị quan trọng cốt lõi trong cuộc sống con người theo cách
làm gia tăng sự tự do của con người; bảo
vệ mọi người khỏi các tình huống nguy cấp (nghiêm trọng) và lan rộng
(phổ biến) các mối đe dọa; xây dựng các nền
tảng về chính trị, xã hội, môi trường, kinh tế, quân sự và văn hóa, cùng
tạo dựng các trụ cột về sự sống còn, sinh kế và phẩm giá của con
người[1,
tr.78]. Bảo đảm ANCN là vấn
đề phức tạp, cần sự tác động, điều chỉnh của nhiều loại quy phạm xã hội khác
nhau, như đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán… với sự tham gia của nhiều chủ
thể xã hội nhằm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân, tổ chức, quốc gia.
Trong đó, pháp luật đang là công cụ bảo đảm ANCN hiệu quả nhất. Thông qua pháp
luật, các khuôn mẫu hành vi xác lập cho các quan hệ về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, môi trường, quân sự từ đó, tác động làm hạn chế các tình huống
nguy cấp, lan rộng các mối đe dọa sự sống và an toàn của con người.
Pháp luật về bảo đảm
ANCN là hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện dựa trên cách tiếp cận
đa chiều, hướng tới xây dựng các nền tảng về chính trị, xã
hội, môi trường, kinh tế, quân sự,
văn hóa và
tạo dựng các trụ cột về sự sống còn, sinh kế và phẩm giá của con
người. Theo đó, pháp luật về bảo đảm ANCN, phải là hệ thống pháp luật tôn
trọng, bảo vệ, thực hiện tốt các quyền con người, quan tâm đến việc kiểm soát,
hạn chế các tình huống khẩn cấp, mối đe dọa lan rộng đe dọa sự sống và an toàn
của con người.
2. Thực trạng pháp luật về bảo đảm an ninh con
người ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn đổi
mới, nhân tố con người luôn được coi là trung tâm của mọi chính sách phát
triển, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển. Tuy nhiên, quá trình đổi mới
đã và đang đặt ra rất nhiều thách thức mới về ANCN, như bất bình đẳng vùng
miền, chênh lệch giàu nghèo, phá rừng, cạn kiệt tài nguyên, tội phạm, an ninh,
an toàn thông tin… Thêm vào đó, quá trình hội nhập buộc Việt Nam phải đối mặt
với những nguy cơ đe dọa ANCN, như: Biến động khó lường của đời sống quốc tế,
dịch bệnh, chiến tranh, tội phạm, âm mưu can thiệp gây mất ổn định về chính
trị…
Trong bối cảnh đó,
pháp luật bảo đảm ANCN ở Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện. Cho đến nay, Hiến
pháp năm 2013 có thể được coi là một trong những thành tựu pháp lý quan trọng góp
phần bảo đảm ANCN ở Việt Nam. Theo đó, quyền con người đã được ghi nhận tại
chương II, với nội dung và cách thức ghi nhận thể hiện rất rõ trách nhiệm của
Nhà nước trong tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người: Ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”[5].
Những thay đổi trong
Hiến pháp năm 2013 đã mang lại những thay đổi mạnh mẽ trong quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam thời gian qua. Nhiều luật mới đã được ban
hành, như: Luật Tiếp cận thông tin năm 2018, Luật Trưng cầu dân ý năm 2016… ; được
sửa đổi, bổ sung, như Bộ luật Dân sự năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2015), Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Tố tụng dân sự năm 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011, 2015); Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015… Nhìn chung, các
bộ luật, luật ban hành mới hay sửa đổi, bổ sung đều hướng tới tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm ANCN với nguyên tắc “Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[5] nhằm ngăn chặn sự hạn chế quyền con người một
cách tùy tiện từ các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền và các cá nhân, tổ
chức khác. Nhờ đó, pháp luật đã có những tác động mạnh mẽ tới nhận thức, hành
vi của các cá nhân, tổ chức, nhất là các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền trong quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Việc bảo đảm an ninh, an
toàn về tính mạng, tài sản của cá nhân, tổ chức được củng cố bằng các cơ sở
pháp lý, các thiết chế thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý; các hành vi xâm
phạm an ninh môi trường như phá rừng, khai thác tài nguyên, khoáng sản… cũng
được kiểm soát chặt chẽ, nhiều vụ việc được phát hiện và xử lý nghiêm minh;
việc bảo đảm ổn định đời sống của nhân dân trong quá trình đô thị hóa, hiện đại
hóa ngày càng được các cấp chính quyền chú trọng bằng nhiều chính sách phù hợp.
Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, những năm qua Việt Nam đã ký kết và tham gia ngày càng sâu rộng
vào các điều ước quốc tế về quyền con người, thương mại, tương trợ tư pháp,
phòng, chống tội phạm, biến đổi khí hậu… từ đó, nâng cao năng lực quốc gia về
hợp tác quốc tế trong bảo đảm ANCN.
Thuật ngữ ANCN chính
thức được đề cập và ghi nhận vào Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng thì nhân tố con người và ANCN trở thành trung tâm của sự phát
triển, an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của
người dân. Văn kiện Đại hội XIII đã đưa ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp trong giai
đoạn phát triển mới với trọng tâm gắn với ANCN, như: “Tăng
cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền
vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an
ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ,
công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý
để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế,
chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”[4, tr.147-148],
đồng thời, “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia,
an ninh con người”[4, tr.156] trong
tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, pháp luật về bảo đảm ANCN ở Việt Nam hiện nay còn
tồn tại một số bất cập,
hạn chế:
Thứ nhất, một số quy định pháp
luật về quyền con người còn tồn tại hạn chế, bất cập gây khó khăn cho cá nhân,
tổ chức trong thực hiện thủ tục hành chính, “hệ thống pháp luật
vẫn còn chứa đựng nhiều “rào cản” khiến cho việc hiện thực hóa “quyền tự do
kinh doanh” gặp nhiều thách thức”[5].Điều này tiềm ẩn nhiều nguy cơ không coi trọng việc
bảo đảm ANCN từ phía các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức có thẩm quyền.
Thứ hai, các chính sách,
pháp luật còn chậm trễ, thiếu chặt chẽ trong kiểm soát những yếu tố tiêu cực
phát sinh từ quá trình phát triển: Trách
nhiệm xử lý môi trường trong các hoạt động khai thác tài nguyên; trách nhiệm
của chính quyền địa phương và chủ đầu tư dự án đối với bảo đảm việc làm, thực
hiện an sinh xã hội ổn định cuộc sống của các đối tượng có liên quan…
Thứ ba, thể chế phát
triển kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ và bị động trong kiểm soát các vấn
đề phát sinh, gây nhiều rủi ro cho xã hội, như vấn đề trách nhiệm sản phẩm của
doanh nghiệp, người sản xuất, hàng hóa sản xuất, nhất là nông sản không rõ nguồn
gốc, xuất xứ bán tràn lan trên thị trường. Bản thân các doanh nghiệp, cũng gặp
nhiều rủi ro, do tình trạng đánh cắp bản quyền, hàng giả, hàng nhái…
Thứ tư, pháp luật chưa
phát huy tốt vai trò của mình trong định hướng hành vi của các cá nhân, tổ
chức, thiết chế trước các nguy cơ về biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ngập
mặn, lũ lụt, sạt lở… do hành vi con người trong chặt phá rừng, khai thác tài
nguyên đất đá, chậm đổi mới công nghệ, sử dụng thiết bị máy móc cũ gây ô nhiễm
môi trường.
Thứ năm, việc thể chế
hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức
thực hiện vẫn là khâu yếu[3, tr.32];
“có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và quy định của Đảng”[3, tr.91]. Hạn chế này làm cho nhiều định hướng
về bảo đảm ANCN của Đảng chậm được hiện thực hóa trong cuộc sống.
Những hạn chế trên
có thể được giải thích bằng những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do điều kiện kinh
tế - xã hội còn nhiều khó khăn nên mục tiêu phát triển kinh tế trong nhiều
trường hợp được coi trọng hơn các mục tiêu về bảo vệ môi trường và các mục tiêu
xã hội khác trong quá trình phát triển.
Thứ hai, việc hoàn thiện
pháp luật về ANCN gặp nhiều khó khăn do nhận thức về quyền con người của một bộ
phận cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều bất cập.
Thứ ba, tình trạng chưa
phân định rõ trách nhiệm, thiếu công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước,
tâm lý e ngại của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện công
khai, minh bạch đã ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện pháp luật.
Thứ tư, trong quá trình
đổi mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh, kinh nghiệm quản lý chưa nhiều, công tác
tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận còn chậm đã ảnh hưởng đến chất lượng
pháp luật về bảo đảm ANCN ở Việt Nam.
Thứ năm, các thế lực thù địch thực hiện
âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền kích động,
lôi kéo gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là
trong bối cảnh dịch bệnh có những diễn biến phức tạp.
Thứ sáu, năng lực, trình
độ của một bộ phận cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật còn hạn chế,
quy trình xây dựng pháp luật còn bất cập; việc xác định trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng pháp luật chưa rõ ràng, chưa cá thể hóa
trách nhiệm.
3. Một số giải pháp góp phần xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam hiện nay
Một là, quán triệt các quan điểm của Đảng
trong Văn kiện Đại hội XIII về an ninh con người trong xây dựng và hoàn thiện
pháp luật
Với
vai trò là lực lượng “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, những định hướng của Đảng
trong bảo đảm ANCN có vai trò quan trọng trong việc nhất quán, phối hợp hành
động của các lực lượng xã hội, trong đó có hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp
luật của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền. Theo Văn kiện Đại hội
XIII, thì hoàn thiện thể chế được xác định là hai trong 12 định hướng phát
triển đất nước giai đoạn 2021-2030 và là một trong 3 đột phá chiến lược giai
đoạn 2021-2025. Đồng thời, Văn kiện Đại hội XIII cũng xác định nhiều định hướng
quan trọng trong hoàn thiện bộ máy nhà nước, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, hoàn thiện dân chủ, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, nhất là trong giám sát,
phản biện xã hội…; bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh quốc
gia, chống “diễn biến hòa bình”… Đây là những định hướng quan trọng và toàn
diện chỉ đạo thực tiễn bảo đảm ANCN ở Việt Nam hiện nay. Việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bảo đảm ANCN phải quán triệt, thể chế hóa kịp thời các quan
điểm của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII về đổi mới tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước về hoàn thiện cơ chế bảo hiến, về thể chế hóa và bảo đảm quyền
con người theo hiến pháp năm 2013…
Hai là, tiếp tục thể chế hóa các quy định về quyền
con người trong Hiến pháp năm 2013 là nhiệm vụ trọng tâm trong hoàn thiện pháp
luật về an ninh con người
Những thay đổi
trong quá trình hoàn thiện pháp luật thời gian qua đã tạo ra những cơ sở pháp
lý quan trọng cho việc bảo đảm ANCN ở Việt Nam. Sự ra đời của Hiến pháp năm
2013 đã tác động rất lớn tới nhận thức chung của xã hội về quyền con người, trách
nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm ANCN. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 còn là cơ
sở pháp lý bảo đảm quyền con người và thúc đẩy hợp tác quốc tế về ANCN. Trên cơ
sở đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ
sung nhằm thực hiện các nguyên tắc, quy định trong Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, để
tiếp tục hoàn thiện pháp luật bảo đảm ANCN cần “Đẩy nhanh tiến độ ban hành
các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013”[3, tr.284].
Ba là, hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân
quyền, xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với các
vấn đề về an ninh con người
Cần nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong bảo đảm quyền con
người cho công dân. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm
trong quản lý nhà nước về bảo đảm quyền con người cho công dân. Kiểm soát ngày
càng chặt chẽ hơn các biểu hiện thiếu trách nhiệm, vô cảm, không xem xét thấu
đáo các vấn đề nảy sinh hay làm ngơ, dung túng các hành vi vi phạm pháp luật...
nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh
mới. Vì vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo đảm ANCN hiện nay cần tiếp
tục thực hiện chủ trương trên đối với các vấn đề về ANCN trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Hoàn thiện các quy định pháp lý nâng cao trách nhiệm
cá nhân, nhất là trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong bảo đảm ANCN.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các bộ máy
nhà nước
Nhà nước là một
thiết chế có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm ANCN. Bất cứ một hành vi
thiếu trách nhiệm nào của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước đều có thể tạo ra
những điều kiện cho các nguy cơ xâm phạm ANCN tồn tại và phát triển. Hơn nữa,
khi quyền lực nhà nước bị lạm dụng, ANCN có nguy cơ bị xâm hại từ chính hoạt
động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, pháp luật phải hoàn thiện để “nhốt quyền lực
trong lồng thể chế”, tạo lập các cơ chế pháp lý kiểm soát bên trong và bên
ngoài, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật và ảnh
hưởng đến ANCN.
Năm là, nâng cao nhận thức xã hội và các thiết
chế xã hội về an ninh con người
Nâng cao nhận thức
của xã hội và các thiết chế xã hội về ANCN là điều kiện tạo nên sự đồng thuận
của xã hội trong hoàn thiện pháp luật về bảo đảm ANCN; bảo đảm tính khả thi của
pháp luật về bảo đảm ANCN. Nhận thức của xã hội và các thiết chế xã hội về ANCN
là cơ sở để các thiết chế xã hội thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện
xã hội nhằm hoàn thiện pháp luật về ANCN. Ngoài ra, nâng cao nhận thức xã hội
về ANCN, còn giúp cho các cá nhân, tổ chức tự giác thay đổi hành vi của mình và
chủ động phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm ANCN. Việc nâng cao
nhận thức xã hội và các thiết chế xã hội về ANCN có thể được thực hiện thông
qua giáo dục về ANCN; thường xuyên tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ANCN;
thông qua việc phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về ANCN.
Kết luận
Trong
bối cảnh hệ thống pháp luật còn tồn tại nhiều bất cập về bảo đảm ANCN, các nguy
cơ đe dọa ANCN ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, việc tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật về bảo đảm ANCN là hết sức cần thiết. Để nâng cao hiệu quả
bảo đảm ANCN ở Việt Nam hiện nay cần phát huy tốt những thành quả đã đạt được,
khắc phục những hạn chế thông qua việc thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm
phát huy tối đa các nguồn lực xã hội, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những quan
điểm chỉ đạo toàn diện về ANCN trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Chu Mạnh Hùng (2011), Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia
trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 10/2011.
[2]. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (1994), Báo
cáo phát triển con người, NewYork: Oxford University Press.
[3]. Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4]. Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[5].
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (2017), Báo cáo rà soát điều kiện
kinh doanh và quyền tự do kinh doanh, Hà Nội.
[6]. Việt
Nam đạt nhiều thành tựu về quyền con người, https://hdll.vn
[7].
World bank (2022), Giải quyết nghèo kinh niên, đảm bảo dịch chuyển kinh tế
bền vững là chìa khóa để Việt Nam đạt được khát vọng quốc gia thu nhập cao,
https://www.worldbank.org