Thứ Năm, ngày 15/12/2022, 11:21

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền trẻ em và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay

Đỗ Thị Hiện
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

(GDLL) - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành một sự quan tâm sâu sắc và cảm động đối với trẻ em. Người đặt niềm tin yêu mạnh mẽ vào trí tuệ và phẩm chất của thế hệ tương lai. Thấm nhuần tư tưởng ấy của Người, trong những năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam xác định bảo đảm quyền trẻ em là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Bài viết làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền trẻ em, sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo đảm và thúc đẩy quyền trẻ em. Trên cơ sở đó bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền trẻ em ở Việt Nam thời gian tới.

Từ khóa: Bảo đảm quyền trẻ em; Đảng Cộng sản Việt Nam; quan điểm của Hồ Chí Minh; quyền trẻ em;

Bác Hồ với các cháu thiếu nhi vùng cao Việt Bắc (1960)

(Ảnh: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn)

Đặt vấn đề

Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến việc bảo đảm các quyền cơ bản cho trẻ em. Với tầm nhìn vượt thời đại, quan điểm của Người về quyền trẻ em chính là cơ sở khoa học đầu tiên để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.

Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việc nghiên cứu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền trẻ em và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền trẻ em trong bối cảnh trẻ em bị xâm hại cả về thể chất và tinh thần đang có những diễn biến phức tạp.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền trẻ em 

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến trẻ em một cách đặc biệt, sâu sắc, cụ thể với tình cảm yêu thương vô bến. Trong kho tàng di sản của Người có tới 128 bài viết đề cập đến trẻ em và việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; trong đó có 60 bài là các bức thư, bài thơ, bài nói chuyện Người gửi trực tiếp đến thiếu niên, nhi đồng. 

Quan niệm của Hồ Chí Minh về trẻ em mang đậm tính nhân văn. Nó đã khái quát một cách hình tượng bản chất đích thực của trẻ em là những thực thể xã hội còn yếu ớt cả về thể chất và chưa hoàn thiện về mặt tinh thần; từ đó khẳng định trách nhiệm và vai trò quan trọng của những người là cha, là mẹ, người lớn và toàn thể xã hội đối với trẻ em. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chăm lo đến trẻ em và việc chăm sóc, giáo dục trẻ em là sự nghiệp vô cùng lớn lao và hệ trọng. Nó không chỉ đòi hỏi sự cố gắng của các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo, các anh chị phụ trách mà còn là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Người chỉ rõ: “Giáo dục thiếu niên, nhi đồng là trách nhiệm của các cô, các chú, của gia đình, của nhà trường, của đoàn thể, của xã hội... muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”[6, tr.76-77]. Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hết sức sáng suốt. Nó chứng tỏ tầm nhìn xa, trông rộng, sự quan tâm sâu sắc của Người đối với trẻ em. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, muốn thực hiện có hiệu quả thì không thể thiếu sự kết hợp, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn thể xã hội. 

Bên cạnh việc coi trẻ em là những chủ thể còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải có sự quan tâm, chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, Người đã đặt niềm tin mạnh mẽ vào trí tuệ và phẩm chất của thế hệ trẻ. Trong bức thư gửi các cháu học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Người khẳng định: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[5, tr.35]

Không ai có thể phủ nhận rằng, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị trí của trẻ em Việt Nam đã tiến một bước nhảy vọt, từ việc bị coi là “những vật sở hữu của các bậc cha mẹ” dưới chế độ cũ đã lên địa vị của người chủ tương lai của đất nước, được Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm, luôn ưu tiên dành cho những điều kiện tốt đẹp nhất cả về vật chất lẫn tinh thần. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm quyền trẻ em nhưng nghiên cứu kho tàng di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể thấy rằng, Người chính là một nhà lãnh đạo luôn tôn trọng, quan tâm đến các quyền lợi của trẻ em, người đã mang lại cho trẻ em Việt Nam những quyền cơ bản nhất mà một trong những quyền đầu tiên và quan trọng ấy là quyền được là một người dân của một đất nước độc lập.

2. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về quyền trẻ em ở Việt Nam

2.1. Sự ghi nhận, tôn trọng quyền trẻ em và trách nhiệm của Nhà nước đối với quyền trẻ em

Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền trẻ em, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rất sớm và đã đề ra hệ thống quan điểm nhất quán và biện chứng giữa quyền con người, quyền công dân, quyền trẻ em với chủ quyền dân tộc, giải phóng con người. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nâng lên thành đường lối chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Trong hệ thống chính sách của Đảng, trẻ em là đối tượng được quan tâm, trước tiên trong mọi lĩnh vực. Đảng chỉ rõ: “thiếu nhi là những người gánh vác tương lai nên chúng ta phải chăm sóc”, “Bảo vệ, giáo dục thiếu nhi là trách nhiệm của toàn Đảng”, “mọi ngành đều phải lấy nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục thiếu nhi là nhiệm vụ của mình”[8, tr.33-35]

Với tinh thần ấy, bảo vệ và chăm sóc trẻ em là vấn đề sống còn của dân tộc. Hiến pháp nước Việt Nam cũng khẳng định: Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo hộ, chăm sóc và giáo dục[4]. Quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành cải cách kinh tế, chính trị nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân chính là quá trình bảo đảm cho sự chăm sóc, bảo vệ, phát triển của trẻ em. Ngược lại, đầu tư cho sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em cũng chính là sự đầu tư khôn ngoan, đúng đắn để bảo đảm cho sự phát triển tương lai của dân tộc.

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em (CRC). Ngày 5/03/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam đã chính thức ký vào văn bản Tuyên bố về sự sống còn, bảo vệ và phát triển trẻ em và bản Kế hoạch hành động nhằm thực hiện tuyên bố trên của Hội nghị cấp cao thế giới. Điều đó chứng tỏ, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa của vấn đề trẻ em, nhận thức được tính pháp lý và tinh thần nhân văn của Công ước về Quyền trẻ em. Công ước này phù hợp với quan điểm của Đảng, truyền thống đạo đức của dân tộc và lợi ích của trẻ em Việt Nam.

Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã đưa ra một chế định pháp lý về vấn đề quyền trẻ em đồng bộ và chặt chẽ, được đặt trong khuôn khổ mối quan hệ trực tiếp với chế định quyền công dân phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên tinh thần và các quy định về quyền trẻ em của Hiến pháp năm 2013 và Công ước của Liên hợp quốc, quyền trẻ em cũng đã được thể chế hóa trong Luật Trẻ em số 102/2016/ QH13 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05/4/2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2017, gồm 7 Chương và 106 Điều. 

Đặc biệt, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, kiểm soát tình hình tai nạn, bạo lực với trẻ em. Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi. Tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em...”[3, tr.233].

2.2. Thực hiện bảo đảm quyền trẻ em ở Việt Nam

Trên thực tế, Việt Nam ngày càng đạt nhiều thành tựu trong giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động trong lĩnh vực trẻ em đã được thực hiện với nội dung và hình thức phong phú. Nội dung tuyên truyền, giáo dục tập trung vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các kiến thức chuyên đề nâng cao nhận thức, vận động sự ủng hộ và tham gia của toàn xã hội; các tập thể, cá nhân điển hình, tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Phương thức tuyên truyền, giáo dục chủ yếu là trên các phương tiện thông tin đại chúng; các hình thức tư vấn trực tiếp và tư vấn cộng đồng; đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em (ngày 7/12/2017, Tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em 111 đã chính thức vận hành); qua các chương trình truyền hình, bản tin, phóng sự ngắn về các vấn đề liên quan đến trẻ em.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được xem như là trách nhiệm của toàn xã hội. Hệ thống pháp luật, chính sách về trẻ em đã được rà soát, sửa đổi và bổ sung theo hướng mở rộng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, đồng thời bảo đảm phù hợp và thực hiện đầy đủ Công ước quốc tế về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết; tập trung phòng ngừa, giải quyết tình trạng trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, bị lạm dụng sức lao động và một số vấn đề liên quan đến trẻ em gây bức xúc xã hội. Các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt đã được các bộ, ngành và nhiều địa phương quan tâm chỉ đạo, đầu tư nguồn lực cũng như huy động các nguồn lực trong xã hội, góp phần quan trọng để trẻ em được chăm sóc sức khỏe và có cơ hội, điều kiện để phát triển cả về thể chất, tinh thần và xã hội. Nhiều chương trình, đề án, dự án về trẻ em đã được triển khai như: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em; Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em; Chương trình phòng, chống bạo lực đối với trẻ em; Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em và các chương trình chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em...

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì thực tế việc bảo đảm quyền trẻ em mà rõ ràng nhất là trong công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: Tình trạng thiếu các điểm giải trí an toàn và phù hợp ở các xã phường, trẻ em bị tử vong do tai nạn thương tích (chết đuối, giao thông, bom mìn... ở trẻ em còn cao so với các nước trong khu vực), trẻ em phải lao động trong điều kiện tồi tệ, tình trạng trẻ em bị bạo lực và xâm hại (trong đó xâm hại tình dục) chưa có xu hướng giảm... trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ sa vào game đen, bạo lực[7]... 

Nguyên nhân gốc rễ của vấn đề trên chính là sự đầu tư nguồn lực của Nhà nước (cả Trung ương và địa phương) chưa thỏa đáng. Nhà nước đã xây dựng được nhiều chương trình, dự án về chăm sóc, bảo vệ trẻ em song, hầu hết các chương trình được phê duyệt nhưng không có nguồn ngân sách đảm bảo để thực hiện hoặc nếu có thì phân bổ “nhỏ giọt” không tương xứng với nhu cầu. Do vậy, khả năng thực hiện được các mục tiêu của chương trình đề ra là rất khó. Thực tế, hàng năm Nhà nước đều phân bổ ngân sách cho địa phương để thực hiện các chương trình cho trẻ em nhưng ngân sách tại địa phương dành cho trẻ em lại rất ít. Cùng với đó là hệ thống mạng lưới cộng tác viên, nhân viên công tác xã hội để phát hiện sớm, phòng ngừa, thống kê báo cáo, phối hợp giải quyết can thiệp chăm sóc bảo vệ trẻ em ở cấp cơ sở còn nhiều lỗ hổng và rất mỏng. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em cũng như đã phê chuẩn các nghị định thư bổ sung. Ở trong nước, hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đã được điều chỉnh để đáp ứng những vấn đề nảy sinh và hài hoà với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, các "kẽ hở pháp luật" ở lĩnh vực này vẫn thể hiện qua việc thiếu những quy định, chế tài cụ thể về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại, bạo lực đối với trẻ em. Pháp luật cũng chưa có được quy định nhằm ràng buộc rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình và các cá nhân trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em nói chung và phòng ngừa cũng như xử lý các vi phạm quyền trẻ em, xâm hại, bạo hành trẻ em nói riêng. Cùng với việc bổ sung luật pháp, thực thi chính sách cho trẻ em, điều quan trọng nhất là tăng cường nhận thức và sự cam kết vào cuộc của lãnh đạo các cấp cùng với nâng cao trách nhiệm của gia đình. 

3. Một số giải pháp bảo đảm và thúc đẩy quyền trẻ em ở Việt Nam thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, các văn bản chỉ đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; củng cố, nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của công tác này đối với sự phát triển bền vững của đất nước và mỗi địa phương. 

Thứ hai, đề cao trách nhiệm các ban, bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan Trung ương và cấp ủy, chính quyền các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trên địa bàn và theo lĩnh vực. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, quy trình phối hợp cấp bộ, ngành về một số nội dung, hoạt động trong lĩnh vực trẻ em, đặc biệt trong công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp các cấp trong phòng ngừa, phát hiện, hỗ trợ trẻ em trong các vụ việc, vụ án bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em.

Thứ ba, không ngừng đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp luật, kỹ năng, hoạt động về thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em cho mọi thành viên trong gia đình, nhà trường và cho chính trẻ em. Đa dạng các hình thức truyền thông, giáo dục, vận động xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, Internet, viễn thông và mạng xã hội, truyền thông trực tiếp đến gia đình, cơ sở giáo dục và cộng đồng.

Thứ tư, triển khai và quyết liệt thực hiện Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em; Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em; Chương trình phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em; Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em... Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ đáp ứng việc thực hiện quyền trẻ em, ưu tiên hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em, lồng ghép và phối hợp giữa các dịch vụ y tế, giáo dục, tư pháp và các dịch vụ an sinh xã hội khác. Đào tạo phát triển đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp và kết hợp với kiêm nhiệm, bán chuyên nghiệp trong các đoàn viên, hội viên của các tổ chức chính trị - xã hội và một số tổ chức xã hội đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có chất lượng và hiệu quả. 

Kết luận

Quan điểm Hồ Chí Minh về quyền của trẻ em là một bộ phận trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm các nội dung toàn diện và sâu sắc về những vấn đề liên quan đến trẻ em. Đó là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá, là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta hoàn thiện cơ sở pháp lý và hiện thực hóa quyền của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. Quan điểm của Đảng, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền trẻ em mang đậm dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm của Người về quyền trẻ em trước đây, bây giờ và mãi về sau vẫn giữ nguyên giá trị và hoàn toàn phù hợp với quan điểm của thời đại: “Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”. Đó là cơ sở cho Đảng, Nhà nước và toàn xã hội thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, thực hiện khát vọng về một Tổ quốc Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013-1992-1980-1959,1946) (2015),Nxb. Lao động, Hà Nội.

[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Vương Lê (2021), Chung tay bảo đảm quyền trẻ em, https://dangcongsan.vn

[8] Một số văn kiện Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1996), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.