Thứ Ba, ngày 20/12/2022, 09:07

Vai trò của công tác tổng kết thực tiễn đối với kết quả tham mưu, đề xuất về công tác tổ chức xây dựng Đảng

LÊ THỊ TÂM - VŨ HƯƠNG GIANG
Văn phòng Ban Tổ chức Trung ương

(XDĐ) - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận. Nhờ thường xuyên tổng kết thực tiễn mà đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn phù hợp với thực tiễn, được kiểm chứng bằng những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.

Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại nhất của Đảng và của dân tộc ta trong năm 2021. Ảnh: TL.

Tổng kết thực tiễn là một khâu không thể thiếu và có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của lý luận. Tổng kết thực tiễn, xét về bản chất là quá trình bằng tư duy khoa học với phương pháp biện chứng duy vật làm cơ sở để chủ thể tổng kết, phân tích, đánh giá, khái quát kinh nghiệm thực tiễn nhằm kiểm tra sự đúng sai của lý luận, từ đó bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ đạo tổ chức thực tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo. Tổng kết thực tiễn là một cấu phần trong công tác nghiên cứu lý luận của Đảng, nhằm kiểm nghiệm các tri thức lý luận đã có, đồng thời thu thập, bổ sung những tri thức thực tiễn mới vào hệ thống lý luận của Đảng.

Tổng kết thực tiễn chỉ có giá trị và ý nghĩa khi những bài học kinh nghiệm được rút ra từ tổng kết thực tiễn có vai trò chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động tổ chức thực tiễn tiếp theo, nghĩa là phải gắn với định hướng nghiên cứu lý luận và định hướng chính sách. Do đó, về bản chất, tổng kết thực tiễn cũng là nghiên cứu lý luận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”1; lý luận là do “kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành ra lý luận”2; “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”3. Còn “Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước”4.

Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, được hình thành, bổ sung, phát triển từ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Chính vì vậy, trong công tác lý luận, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ và đề cao vị trí, vai trò của hoạt động tổng kết thực tiễn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về “Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” đã khẳng định phải: “Coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành; gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại”5.

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách với phù hợp quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển”6, phải “đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”7.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”8.

Vai trò của hoạt động tổng kết thực tiễn đối với việc tham mưu về công tác tổ chức xây dựng Đảng

Tổng kết thực tiễn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc tham mưu xây dựng các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng

Trong quá trình đổi mới ở nước ta, việc tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận đã góp phần “cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội”9.

Từ tổng kết “khoán chui” ở một số địa phương trước Đổi mới, như chính sách khoán của Vĩnh Phúc hay mô hình phân phối thu mua ở Long An theo giá thoả thuận,… Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13-1-1981 về Cải tiến công tác khoán, mở rộng “Khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp, sau là Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 về Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nhờ đó, từ một nước thiếu lương thực triền miên, đến năm 1989, sản lượng lúa gạo của cả nước đã đạt 21,5 triệu tấn và xuất khẩu được 1,2 triệu tấn lúa gạo.

Sau khi nghiên cứu, tổng kết sự nghiệp xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976-1986), Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Từ sau năm 1986 đến Đại hội XIII, Đảng không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, làm rõ nhiều vấn đề trong đường lối đổi mới; xác định rõ mục tiêu, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; từ đó đúc kết 5 bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng, chỉnh đốn Đảng như là những vấn đề lý luận căn cốt của cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng Đảng luôn đa dạng, phong phú và có chiều hướng vận động, phát triển nhanh, mạnh mẽ; do vậy, việc tổng kết thực tiễn triển khai công tác tổ chức xây dựng Đảng có vai trò rất quan trọng trong phát triển lý luận. Nếu không nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sẽ không có cơ sở lý luận và thực tiễn để nghiên cứu, tham mưu các nội dung về công tác tổ chức xây dựng Đảng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nói cách khác, thông qua việc nghiên cứu, sơ kết, tổng kết các chủ trương, nghị quyết về công tác tổ chức xây dựng Đảng, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn đang đặt ra; đồng thời làm cơ sở để tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành các nghị quyết, kết luận, quy định, quy chế về công tác tổ chức xây dựng Đảng, góp phần khắc phục, ngăn ngừa “chủ nghĩa kinh nghiệm” và căn bệnh giáo điều, áp đặt, chủ quan. Tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng Đảng cũng là để kiểm chứng tính đúng sai, sự phù hợp của các quyết sách đã ban hành, trên cơ sở đó xây dựng luận cứ khoa học cho những chính sách tiếp theo.

Tổng kết thực tiễn góp phần đánh giá các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tổ chức xây dựng Đảng

Đường lối của Đảng luôn xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo kiểm nghiệm lý luận, nhờ đó mà đủ sức soi đường, chỉ lối, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách về công tác tổ chức xây dựng Đảng, đặc biệt là đúc kết những kinh nghiệm quý, cách làm hay từ “điểm” mà nhân ra “diện”; giúp phát hiện những gương điển hình tiên tiến để giáo dục, nêu gương cho đảng viên và quần chúng.

Các đường lối, chủ trương của Đảng nói chung và về công tác tổ chức xây dựng Đảng nói riêng, sau một thời gian ban hành, triển khai trong thực tiễn, nếu có vấn đề không phù hợp hoặc sau một thời gian ban hành sẽ có những nội dung không còn phù hợp với bối cảnh tình hình mới, gây khó khăn cho các cấp ủy, tổ chức đảng; đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải tiến hành tổng kết lại quá trình triển khai của các địa phương, đơn vị, trên cơ sở đó sẽ đánh giá được văn bản đó còn phù hợp với thực tiễn hay không để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới (nếu thấy cần thiết).

Bên cạnh đó, đối với những vấn đề chưa đủ luận cứ khoa học và thực tế, chưa có tiền lệ, Trung ương cho phép các địa phương sử dụng hình thức “thí điểm”, như thí điểm các mô hình tổ chức mới và kiêm nhiệm chức danh, việc thí điểm đổi mới cách thức tuyển chọn các chức danh lãnh đạo, quản lý hay tổ chức thí điểm sinh hoạt tổ đảng thay thế cho sinh hoạt chi bộ đối với những chi bộ có đông đảng viên… Sau một thời gian nhất định, Trung ương cũng cần phải tổng kết lại những kết quả đã triển khai của các địa phương để xem chủ trương đó có hợp lý hay không? Nếu quá trình tổng kết cho thấy chủ trương đó là phù hợp, Trung ương có thể cân nhắc để cho phép áp dụng đại trà trên thực tế; ngược lại, sẽ yêu cầu dừng việc thí điểm lại, giảm thiểu sai sót, hậu quả không đáng có.

Các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác tổ chức xây dựng Đảng sau một chu trình vận động 5-10 năm đều được sơ kết, tổng kết để tiếp tục điều chỉnh, bổ sung trong chu trình mới. Qua tổng kết thực tiễn, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng ngày càng hoàn thiện, bao phủ được các lĩnh vực của công tác tổ chức xây dựng Đảng, từ công tác cán bộ, tổ chức bộ máy, biên chế, cơ sở đảng, đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ, từ đó giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra. Đồng thời, những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn chính là thước đo đánh giá tính phù hợp, đúng đắn của các chủ trương, chính sách.

Thực trạng công tác tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng Đảng

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, Ban Tổ chức Trung ương đã bám sát Chương trình làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và tình hình thực tiễn công tác tổ chức xây dựng Đảng để tham mưu sơ kết, tổng kết, bổ sung, sửa đổi các văn bản của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng thời đề xuất bổ sung vào chương trình công tác những nội dung cần sơ kết, tổng kết, bổ sung, sửa đổi nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác tổ chức xây dựng Đảng; góp phần thiết thực vào quá trình xây dựng dự thảo một số nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng.

Để có cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Đề án trình Hội nghị Trung ương, từ nhiệm kỳ Đại hội XI đến nay, Ban Tổ chức Trung ương đã tham mưu hoàn thành việc sơ kết, tổng kết 68 văn bản; gồm 4 văn bản thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương; 34 văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ Chính trị và 30 văn bản thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư; trong đó có nhiều nội dung quan trọng, tác động sâu rộng tới toàn hệ thống chính trị.

Trong quá trình sơ kết, tổng kết, Ban Tổ chức Trung ương đã thường xuyên xin ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, định hướng và về từng nội dung cụ thể đã thống nhất để bảo đảm đúng trọng tâm, trọng điểm; trong đó, có nhiều nội dung quan trọng, mang tính định hướng, đổi mới, góp phần hoàn thiện thể chế về công tác tổ chức xây dựng Đảng như: Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tổng kết công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, khóa XII; công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý; về lấy phiếu tín nhiệm của Trung ương đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tổng kết Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng; Quy chế bầu cử tại Đại hội Đảng XI, Đại hội XII của Đảng; Quy chế làm việc của Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng; phân bổ đại biểu ở các kỳ đại hội X, XI, XII của Đảng. Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng; sơ kết, tổng kết nghị quyết, kết luận về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị; mô hình hoạt động của tổ chức đảng ngoài nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Sơ kết, tổng kết việc thực hiện các văn bản về công tác cán bộ; xây dựng quy định về luân chuyển cán bộ, phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước và xử lý sai phạm trong công tác tuyển dụng cán bộ. Sơ kết, tổng kết các nghị quyết, kết luận về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; việc kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng và phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Sơ kết, tổng kết thực hiện các văn bản về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng và tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay…

Trong quá trình nghiên cứu, tham mưu các đề án, nhiệm vụ về công tác tổ chức xây dựng Đảng, Ban Tổ chức Trung ương đã chú trọng việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học... để lắng nghe ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức các hội nghị, hội thảo bằng hình thức trực tuyến.

Công tác sơ kết, tổng kết các văn bản của Trung ương được thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu quả, trong đó có nhiều nội dung quan trọng, mang tính định hướng, đổi mới, góp phần hoàn thiện thể chế về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Qua tổng kết đã phát hiện những mô hình hay, các điển hình tiên tiến, những địa phương, đơn vị có cách làm sáng tạo, hiệu quả để biểu dương, nhân rộng trong toàn Ngành; kịp thời cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng, ban hành các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Các văn bản ngay khi được ban hành đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức xây dựng Đảng thời gian qua còn một số hạn chế như: Công tác tổng kết thực tiễn chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh tình hình mới. Đội ngũ cán bộ tham mưu về công tác tổ chức xây dựng Đảng có không ít người chưa được đào tạo bài bản theo chuyên ngành, không được cập nhật kiến thức mới thường xuyên nên năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý luận còn hạn chế. Chưa tách biệt giữa công tác hành chính đảng với hoạt động nghiên cứu, tham mưu (bao gồm cả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và tham mưu đường lối, chủ trương); công tác quản lý, lưu trữ, khai thác hồ sơ, tài liệu còn hạn chế, nhất là việc số hóa tài liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu khoa học về lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Việc tra cứu, khai thác các thông tin về đề án, đề tài gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian. Việc tổ chức khảo sát thực tiễn tại các địa phương, cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước có lúc còn gặp khó khăn. Trong quá trình tham mưu xây dựng đề án, nhiệm vụ còn chưa chủ động tổng kết những mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả của địa phương, đơn vị để nhìn nhận, đánh giá các chủ trương, đường lối về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Một số đề án sơ kết, tổng kết tuy đã phát hiện ra những mô hình hay, những cách làm sáng tạo, hiệu quả, các điển hình tiên tiến, nhưng việc nhân rộng còn hạn chế.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã thẳng thắn nhìn nhận, công tác tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế, “thiếu gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa cán bộ lý luận với cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”10. Những hạn chế, bất cập nêu trên có nguyên nhân khách quan là quá trình đổi mới, phát triển đất nước nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, chưa có tiền lệ; chính vì vậy, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về công tác tổ chức xây dựng Đảng không kịp thời thay đổi để thích ứng với yêu cầu.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tổng kết thực tiễn

Để nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao hơn nhận thức của cấp ủy các cấp đối với công tác tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận và hoạt động chỉ đạo, điều hành. Phải làm cho cấp ủy các cấp và mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức rõ ưu điểm và hạn chế của tư duy kinh nghiệm, trên cơ sở đó tìm giải pháp phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế. Chú trọng nâng cao lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, phát triển tư duy lý luận và tăng cường kỹ năng tổng kết thực tiễn. Coi trọng tổng kết thực tiễn, cả những việc thành công và chưa thành công, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra; thường xuyên bổ sung, hoàn thiện thể chế; sâu sát cơ sở, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.

Hai là, hoàn thiện các thể chế, cơ chế và điều kiện hóa cho tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận. Ban hành các thể chế xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cấp ủy, của cơ quan chuyên trách làm nòng cốt trong tổng kết thực tiễn của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Rà soát, đánh giá lại các cơ chế tổng kết thực tiễn hiện có đồng thời bảo đảm các nguồn lực cần thiết cho việc sơ kết, tổng kết các văn kiện của Đảng; đặc biệt coi trọng xây dựng, phát huy vai trò, tâm huyết, trí tuệ của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, cán bộ làm công tác tham mưu.

Ba là, đa dạng hóa phương thức tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học. Tổng kết thực tiễn lâu nay mới chủ yếu coi trọng phương thức gián tiếp thông qua thành lập ban chỉ đạo và tổ chức theo hệ thống dọc. Phương thức này rất cần thiết nhằm triển khai một đề án, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn - lý luận cụ thể khi lý luận còn có độ trễ trước thực tiễn, đòi hỏi phải được bổ sung bằng chính dữ liệu của đời sống hay chu trình của một nghị quyết đủ niên độ thời gian (5, 10 năm) phải tổng kết, đánh giá. Ngoài tổng kết theo phương thức gián tiếp thì còn có tổng kết theo phương thức trực tiếp, tức người lãnh đạo dành thời gian đi cơ sở để quan sát, điều tra, tổng kết các mô hình; nghiên cứu các nhân tố mới, gương điển hình tiên tiến. Để phương thức tổng kết trực tiếp có hiệu quả đòi hỏi phải định hình chế độ đi cơ sở của cán bộ lãnh đạo các cấp; hình thành thói quen quan sát, điều tra, xem xét các tình huống trong thực tiễn, đặc biệt là phát hiện các mâu thuẫn và hướng giải quyết mâu thuẫn. Chế độ đi cơ sở giúp cán bộ có điều kiện nắm bắt thực tiễn, bổ sung dữ liệu thực tiễn cho những nhận thức còn chưa sáng rõ, đồng thời kiểm tra lý luận bằng thực tiễn. Các mô hình hay, các điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả của các địa phương rất phong phú trong đời sống, gồm cả gương tập thể và cá nhân, cần phải được phân tích và đánh giá thấu đáo để phổ biến nhân rộng, bổ sung cho tri thức lý luận.

Bốn là, tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị để nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn; phát huy dân chủ, tranh thu tối đa trí tuệ tập thể của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học, các đồng chí nguyên lãnh đạo có nhiều kinh nghiệm về tổ chức xây dựng Đảng. Thường xuyên xin ý kiến của cấp có thẩm quyền trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ về chủ trương, định hướng; về từng nội dung cụ thể để việc triển khai bảo đảm đúng trọng tâm, trọng điểm, tiết kiệm thời gian, công sức. Đồng thời, tập trung hoàn thiện cơ sở dữ liệu khoa học về tổ chức xây dựng Đảng, đổi mới việc khảo sát tại các địa phương, cơ quan, đơn vị theo hướng lồng ghép nhiều nội dung tương đồng khi khảo sát, tăng cường khảo sát ở cơ sở để tiếp thu rộng rãi ý kiến của cán bộ, đảng viên và đối tượng có liên quan.

Việc thực hiện có hiệu quả 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn, từ đó phát triển lý luận của Đảng để tiếp tục giải quyết những vấn đề mới phát sinh. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là yêu cầu khách quan và cũng là vấn đề có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

(Nguồn: xaydungdang.org.vn)

_________________________ 

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQGST, H.2011, tập 5, tr.273.

(2) Sách đã dẫn, tập 5, tr.312.

(3), (4) Sách đã dẫn, tập 11, tr. 96.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương IX, NXB CTQGST, H.2002, tr.134-135.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.200.

(7) Sách đã dẫn, tr.201.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB CTQGST, H. 2021, tập I, tr.181-182.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, NXB CTQG; H.2002, tr.64.

(10) Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9-12-2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2018), Hướng dẫn số 02-HD/TW về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2011;

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2016;

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2021.

5. Đoàn Minh Huấn, “Tổng kết thực tiễn phục vụ công tác nghiên cứu lý luận: Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 26-9-2018.

6. Hồ Chí Minh toàn tập; Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật Hà Nội, 2011.

7. Lê Hữu Nghĩa, Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn: Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp, Tạp chí Cộng sản Online, ngày 10-4-2018.

8. Trần Văn Phòng, Tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, Cổng thông tin điện tử Học viện chính trị khu vực II, ngày 19-9-2021.

Đọc thêm

Hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang hiện nay

Tác giả: Trần Văn Hiển

(GDLL) - Liên kết chuỗi giá trị nông sản là mô hình kinh tế đem lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển nông nghiệp bền vững trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu. Trên cơ sở những nhận thức cơ bản về chuỗi giá trị nông sản: khái niệm, hình thức, sơ đồ, mô hình liên kết…, bài viết khái quát kết quả, vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang.

30 năm quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - 2022): Thành tựu và triển vọng

Tác giả: NGUYỄN VĂN ĐỨC - NGUYỄN THỊ THÚY

(GDLL) - Trải qua 30 năm, quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc đã có bước phát triển toàn diện, bền vững, mang lại lợi ích cho cả hai dân tộc. Bài viết khái quát những thành tựu tốt đẹp đã gặt hái được trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc 30 năm qua (1992 - 2022) và chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại. Từ đó, đưa ra định hướng, khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc lên tầm cao mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tác giả: PGS. TS. Phạm Ngọc Linh

(TG) - Sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN đã nâng cao vai trò của LHHVN trong việc tập hợp đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Các tổ chức KH&CN này được đánh giá là nhân tố mới ở Việt Nam trong công tác tham gia xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới hướng tới mô hình làng thông minh

Tác giả: TS ĐỖ THỊ PHƯƠNG HOA

(LLCT) - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của nhân loại. Chuyển đổi số trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng làng thông minh ở nước ta, chỉ ra thực trạng một số mô hình làng thông minh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh trong thời gian tới.

Vai trò của lực lượng dân quân tự vệ Hà Nội trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" tháng 12 năm 1972

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - LÊ TRỌNG ĐẠI

(GDLL) - Trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Dân quân tự vệ luôn là lực lượng dự bị hùng hậu cho bộ đội chủ lực và xung kích trong lao động sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, là lực lượng nòng cốt cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Bài viết khái quát diễn biến chính của trận “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội, làm rõ vai trò quan trọng của lực lượng Dân quân tự vệ Hà Nội trong bảo vệ địa phương, địa bàn cơ sở, rút ra một số kinh nghiệm vận dụng về vai trò của lực lượng Dân quân tự vệ Hà Nội.