Thứ Ba, ngày 31/01/2023, 13:30

Tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”

TRIỆU QUANG MINH - HÀ THÙY DƯƠNG
Học viện Chính trị khu vực I - Học viện Chính trị khu vực IV

(GDLL) - Bài viết phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những yêu cầu đối với việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng trong tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”. Trên cơ sở đó, bài viết liên hệ về việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng hiện nay.

Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; “Sửa đổi lối làm việc”; tổ chức thực hiện nghị quyết.

 

Đặt vấn đề

“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm kinh điển về xây dựng Đảng, bàn đến rất nhiều vấn đề lớn về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong đó có nội dung về tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Phương thức lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng chính là lãnh đạo bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương thể hiện thông qua nghị quyết của Đảng. Do đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng chính là thể hiện ở việc Đảng đề ra được đường lối, chính sách đúng và tổ chức triển khai có hiệu quả đường lối đó trong thực tiễn. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những lưu ý, chỉ dẫn rất sâu sắc, đầy đủ và rõ ràng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những yêu cầu đối với việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng

Nghị quyết khi đã được ban hành dù có đúng đắn, cần thiết, phù hợp nhưng nếu không được tổ chức thực hiện thì cũng không phát huy tác dụng. Do đó, một khâu rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng là phải lãnh đạo việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến khâu tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, Người phê phán một số lãnh đạo chỉ chú ý đến việc viết chỉ thị, nghị quyết mà không chú ý đến khâu tổ chức thực hiện. Người cũng chỉ ra hiện tượng ở nhiều nơi, cán bộ lãnh đạo chỉ lo “khai hội” và “thảo nghị quyết”, “đánh điện và gửi chỉ thị”, nhưng không biết những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn, trở ngại gì, dân chúng có nhiệt tình tham gia hay không. Chính vì thế, mặc dù “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” nhưng công việc vẫn không chạy. Theo Người, nếu chỉ biết ra nghị quyết mà không chú ý đến việc tổ chức thực hiện nghị quyết thì không chỉ là không phát huy được tác dụng của nghị quyết trên thực tế mà còn rất nguy hại cho sự lãnh đạo của Đảng: “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Nếu không như vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[1, tr.290]. Nếu nghị quyết không được tổ chức thực hiện hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân sẽ nghĩ Đảng chỉ biết nói hay nhưng làm thì dở. Do đó, Đảng cũng phải hết sức chú ý đến khâu tổ chức thực hiện. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Thành công của Đại hội không phải là thông qua được Nghị quyết, bầu Ban Chấp hành mới, quan trọng hơn, sắp tới phải đưa Nghị quyết vào cuộc sống thế nào, biến nó thành hiện thực thế nào”[4].

Nghị quyết đã được ban hành thì phải được truyền xuống cấp dưới, cho toàn thể đảng viên và quần chúng biết, hiểu được nội dung của nghị quyết bởi lẽ những cơ quan lãnh đạo của Đảng ban hành nghị quyết nhưng thực hiện nghị quyết là nhiệm vụ của toàn thể đảng viên và quần chúng nhân dân: “Mỗi nghị quyết phải mau chóng truyền xuống các cấp dưới, đến đảng viên, đến dân chúng”[3, tr.300]. Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hình ảnh so sánh dễ hiểu, nghị quyết cũng giống như mạch máu trong cơ thể, nếu nghị quyết được truyền đi khắp toàn Đảng, toàn dân thì công việc sẽ trôi chảy, cơ thể khoẻ mạnh còn nếu nghị quyết dừng lại ở đâu, mạch máu ách tắc ở đó, từ cấp đó trở xuống sẽ bị tê liệt, công việc không trôi chảy, bởi lẽ Đảng lãnh đạo toàn dân, lãnh đạo các đảng viên bằng nghị quyết. Nhiệm vụ, công việc phải thực hiện để có thể xây dựng và phát triển đất nước thể hiện trong các nghị quyết, nên không có nghị quyết thì đảng viên và nhân dân sẽ không biết công việc, nhiệm vụ của mình phải làm: “Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chảy đều khắp cơ thể thì người mạnh khoẻ. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh. Mệnh lệnh và nghị quyết đi mau, đi suốt từ trên đến dưới, công tác mau chóng, việc gì cũng xong xuôi. Nó ngừng lại cấp nào, từ cấp đó trở xuống là tê liệt, không biết đường nào mà công tác”[3, tr.299].

Tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng gồm nhiều bước như tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động để triển khai nghị quyết và thực hiện trên thực tế, kiểm tra, giám sát việc thực hiện cũng như sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện nghị quyết. Trong đó, việc tổ chức, học tập quán triệt nghị quyết để cho tất cả đảng viên và nhân dân đều biết, đều hiểu nội dung của nghị quyết là bước đầu tiên rất quan trọng. Vì đảng viên và nhân dân có hiểu nội dung nghị quyết mới thấy ý nghĩa, sự cần thiết, tầm quan trọng của việc thực hiện nghị quyết và từ đó có quyết tâm thực hiện nghị quyết: “Mỗi khẩu hiệu của Đảng phải là cái ý nguyện và mục đích của hàng... đảng viên và của hàng triệu dân chúng. Mà muốn như vậy, phải làm cho quần chúng hiểu, phải học cách nói của quần chúng”[3, tr.345]. Trong đó, Người chỉ ra một hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết là tổ chức khai hội, có báo cáo viên đến giải thích làm rõ những nội dung trong nghị quyết: “Cách tiện nhất là khai hội với các đảng viên, khai hội với dân chúng (hoặc binh sĩ), phái người đến báo cáo, giải thích”[3, tr.300]. Trong quán triệt, phổ biến nghị quyết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải bảo đảm có sự thảo luận, tranh luận để người nghe thực sự hiểu đầy đủ, sâu sắc nội dung của nghị quyết: “Các cấp dưới, đảng viên và dân chúng (hoặc binh sĩ) phải thảo luận những mệnh lệnh và nghị quyết đó cho rõ ràng, hiểu thấu ý nghĩa của nó và định cách thi hành cho đúng”[5, tr.300]. Tuy nhiên, thực tế thì việc thảo luận, tranh luận trong quá trình quán triệt, phổ biến nghị quyết hiện nay rất hạn chế mà chỉ mới dừng lại ở khâu báo cáo, báo cáo viên trình bày những nội dung cơ bản của nghị quyết. Chính vì thiếu sự tranh luận, thảo luận nên nhiều đảng viên, quần chúng tham dự các buổi học tập nghị quyết đầy đủ nhưng mức độ hiểu về nội dung nghị quyết thì còn rất hạn chế, chúng ta cũng chưa có cơ chế hiệu quả để kiểm tra, đánh giá hiệu quả việc nghiên cứu, học tập nghị quyết của đảng viên và quần chúng. Điều này làm cho việc quán triệt, phổ biến nghị quyết không đạt được như kết quả mong muốn, trở thành hình thức. Do đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đảng viên và quần chúng phải “hiểu thấu” ý nghĩa của nghị quyết, hiểu thấu không chỉ là nắm sơ sơ nội dung mà phải hiểu đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Bởi nếu không hiểu nội dung nghị quyết thì không thể “định cách thi hành cho đúng”. Trên cơ sở nội dung của nghị quyết, căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ, chức năng của từng địa phương, đơn vị mà các đảng viên, quần chúng mới xây dựng chương trình, biện pháp hành động để thực hiện nội dung nghị quyết cho phù hợp với mình. Do đó, không hiệu quả ở khâu đầu tiên này thì các khâu sau cũng sẽ không thực chất, thiết thực. Những chỉ dẫn của Người về việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng vẫn còn có ý nghĩa thời sự hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục thực hiện đầy đủ, nghiêm túc những chỉ dẫn của Người.

Vấn đề quan trọng trong tổ chức thực hiện nghị quyết là từng đảng viên, quần chúng, từng cơ quan, đơn vị, địa phương phải nghiêm túc, nhanh chóng, kiên quyết triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng bằng những hành động, công việc cụ thể của mình. Người phê phán hiện tượng một số nơi không nhanh chóng thi hành nghị quyết hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, làm cho có, không đầu tư nghiên cứu, đổi mới cách nghĩ, cách làm để có thể thực hiện nghị quyết một cách hiệu quả: “Khi thi hành thì kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng. Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không sốt sắng, không đến nơi đến chốn”[3, tr.299]. Người yêu cầu: “các địa phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại thói nghị quyết một đàng, thi hành một nẻo”[3, tr.307-308]. Thực tế hiện nay cũng cho thấy, bên cạnh một số địa phương tích cực triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng thì cẫn còn tình trạng: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả”[1, tr.90]. Do đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nghiêm khắc yêu cầu: “Khắc phục dần tình trạng nghị quyết thì đúng, nhưng thực hiện không nghiêm hoặc kém hiệu quả”[5, tr.122].

Một nội dung quan trọng trong tổ chức thực hiện nghị quyết là kiểm tra, giám sát gắn liền với sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Kiểm soát là cần thiết trong công tác lãnh đạo và đối với việc thực hiện nghị quyết của Đảng cũng vậy. Hồ Chí Minh khẳng định: “muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát[3, tr.327]. Kiểm soát thường xuyên, định kỳ cũng như đột xuất sẽ nâng cao ý thức tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng viên và cán bộ cấp dưới, đồng thời thông qua kiểm soát sẽ nắm rõ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện để có những điều chỉnh phù hợp, đồng thời nắm rõ ai tích cực thực hiện để có những hình thức động viên, khen thưởng, ai không tích cực để có những nhắc nhở, chấn chỉnh. Như vậy, kiểm soát sẽ góp phần bảo đảm nghị quyết được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Kiểm soát gắn liền với đánh giá và sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Sau mỗi cuộc kiểm tra, giám sát, phải kịp thời ban hành kết luận để đánh giá kết quả thực hiện, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, những vấn đề cần được rút kinh nghiệm, khắc phục những sai sót; đồng thời, bổ sung, điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết đạt hiệu quả hơn. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng cần được coi là căn cứ quan trọng để đánh giá, xếp loại cấp ủy, tổ chức đảng, xếp loại chính quyền; đánh giá, xếp loại tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu. Nhận thức rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng chỉ đạo “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát gắn với coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở các cấp”[2, tr.255].

Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa, Sở Nông lâm Hà Nội (tháng 7-1960). (Ảnh: TTXVN)

Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng bao gồm nhiều khâu như: quán triệt, học tập nghị quyết, triển khai thi hành nghị quyết, kiểm soát việc thi hành gắn liền với sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Người cũng có những lưu ý trong từng khâu như: việc học tập nghị quyết phải bảo đảm nghiêm túc, có sự tranh luận, thảo luận để bảo đảm tất cả quần chúng, đảng viên đều hiểu thấu đáo nghị quyết; thi hành nghị quyết phải kiên quyết, nhanh chóng, có trách nhiệm.

2. Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng hiện nay

Thực hiện theo những chỉ dẫn của Người, thời gian qua Đảng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong tổ chức triển khai nghị quyết nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng. Đảng đã rất chú ý đến công tác tổng kết thực tiễn làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Việc học tập và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng cũng được chú ý. Ví dụ sau khi ban hành Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 03-HD/BTGTW ngày 18/3/2021 về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hướng dẫn yêu cầu việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng phải được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản, khoa học, chất lượng trong suốt cả nhiệm kỳ.

Tuy nhiên, một số nghị quyết của các cấp ủy chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự báo những tác động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Việc học tập nghị quyết ở một số đảng viên vẫn còn mang tính chất đối phó, hình thức, chưa thực chất, chất lượng. Có những nội dung trong nghị quyết đưa ra chưa đạt được hiệu quả, mục tiêu đặt ra. Vì vậy, trong thời gian tới phải quán triệt sâu sắc Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, khắc phục những hạn chế trong xây dựng và triển khai nghị quyết. Đảng cần chi tiết hóa, quy chế hóa các quy trình trong xây dựng nghị quyết của các cấp ủy Đảng. Học tập, quán triệt nghị quyết cần có những hình thức kiểm tra để bảo đảm việc học tập nghiêm túc, các đảng viên đều nắm sâu sắc nội dung của nghị quyết. Việc đánh giá đảng viên hàng năm cần dựa trên kết quả triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng, đặc biệt là đối với những người đứng đầu tổ chức đảng.

Kết luận

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn liền với quá trình nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, mặc dù có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng và thực hiện nghị quyết nhưng như Đảng nhận định tổ chức thực hiện vẫn đang là khâu yếu. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc những chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[5] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp báo sau Đại hội XIII, http://www.xaydungdang.org.vn

Đọc thêm

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Bảo vệ chủ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên không gian mạng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ là nhiệm vụ rất quan trọng, có tầm chiến lược. Phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng và ứng phó với những nguy cơ mới đến từ không gian mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Bài viết đi sâu khái quát quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về an ninh mạng và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới.