Thứ Ba, ngày 31/01/2023, 13:49

Xây dựng Đảng về đạo đức tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng

PGS, TS. NGUYỄN VĨNH THANH
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Tư tưởng xây dựng Đảng về đạo đức của Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, là cẩm nang định hướng cho công tác xây dựng Đảng về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình đổi mới đất nước. Bài viết tập trung làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng Đảng về đạo đức, từ đó quán triệt và vận dụng vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng về đạo đức ở Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay.

Từ khóa: Học viện Chính trị khu vực I; Hồ Chí Minh; xây dựng Đảng về đạo đức.

Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Trung ương về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng năm 2021. (Ảnh: https://tuyengiao.vn)

Đặt vấn đề

Xây dựng Đảng về đạo đức là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt, gắn chặt với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Trong đó, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho các tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt, là “cái gốc”, là “nền tảng” và “căn bản” làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh. Xây dựng Đảng về đạo đức được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và trù tính từ trước khi thành lập Đảng, với những chỉ dẫn về nội dung, nguyên tắc, biện pháp có giá trị sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn, là cẩm nang định hướng cho công tác xây dựng Đảng về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng như xuất phát từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng về đạo đức tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I, bài viết đề xuất những giải pháp để thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng về đạo đức tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay.

1. Chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức

* Xây dựng đạo đức của tổ chức đảng

Vấn đề xây dựng đạo đức của tổ chức đảng được Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm và thể hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau, nhưng được đề cập một cách toàn diện và sâu sắc hơn cả là trong tác phẩm Đạo đức cách mạng khi Người nêu yêu cầu về các “tiêu chí của một đảng chân chính cách mạng”. Người xác định rõ, một đảng cách mạng chân chính, cần phải luôn tâm niệm và thực hành cho được 12 điều “tư cách” của một Đảng cách mệnh chân chính. Điều đó được thể hiện ở những nội dung:

Xây dựng đạo đức thống nhất và thẩm thấu trong tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng không có lợi ích riêng, không cơ lợi ích tự thân. Đó cũng là lý tưởng đạo đức cao đẹp của Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng viên. Người khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[4, tr.289]. Từ đó, Người xác định rõ mục đích: “Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp”[7, tr.67]. Như vậy, sứ mệnh cao cả nhất, thiêng liêng nhất của Đảng chínhgiành lại độc lập cho dân tộc, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, cũng từ lý tưởng, sứ mệnh cao cả ấy mà đối với Nhân dân, với dân tộc, Đảng là biểu tượng của đạo đức và văn minh.

Xây dựng đạo đức thống nhất và thẩm thấu trong nền tảng lý luận của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, lý luận của Đảng chính là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là sự khởi đầu cho sự hình thành tư cách người cán bộ cách mạng. Lý luận Mác - Lênintác động lớn đến tư tưởng, đạo đức và khả năng thực hành công việc của mỗi cán bộ, đảng viên, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao tư tưởng chính trị, tinh thần tự giác, tính tích cực trong quá trình cải tạo, xây dựng con người mới, xã hội mới. Do những yếu tố đó, đạo đức của tổ chức đảng chính là ở chỗ làm cho lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin thấm sâu vào tư tưởng và hành động của các cán bộ, đảng viên.

Xây dựng đạo đức thống nhất và thẩm thấu trong đường lối chính trị của Đảng. Điều này có nghĩa là xây dựng đạo đức phải thống nhất với mục tiêu, đường lối của Đảng, phải bám sát thực tiễn tình hình chứ không phải ngồi bàn giấy để vẽ ra chủ trương, kế hoạch. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương” [4, tr.289]. Bên cạnh đó, Người cũng lưu ý rằng: Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát. Đảng phải khéo léo trong xử lý mối quan hệ giữa kiên định về nguyên tắc, lý tưởng, niềm tin và tính linh hoạt, uyển chuyển trong phong cách tư duy và hành động. Cốt lõi của quan điểm này chính là phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Xây dựng đạo đức trong mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với Nhân dân. Theo Người, Đảng chân chính là: “Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không”[4, tr.289]. Bởi lẽ: “... có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[4, tr.335]; Đảng phải chăm lo lợi ích của nhân dân. “Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân”[4, tr.289]; Đảng phải xây dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng bằng cách “...phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[4, tr.290].

Xây dựng đạo đức trong tổ chức và thi hành kỷ luật nghiêm minh của Đảng. Để xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, Hồ Chí Minh yêu cầu:“Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo”[4, tr.290]. Người nhấn mạnh vai trò quan trọng ngay từ khâu lựa chọn đảng viên, xác định đó là nền tảng của tổ chức đảng. “Đảng cần phải làm cho thành phần đảng viên trong sạch, phải bồi dưỡng và hấp thụ vào Đảng những người tốt trong giai cấp lao động. Phải nâng cao trình độ lý luận và chính trị của đảng viên. Phải tăng cường tính tổ chức và tính kỷ luật của đảng viên. Phải phát triển tính hăng hái và hoạt động chính trị của đảng viên”[6, tr.281]; “Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới”[4, tr.290]. Đảng mà không có kỷ luật thì Đảng không có sức sống, càng không có sức chiến đấu.

Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trước những sai lầm, khuyết điểm của Đảng chân chính cách mạng. Trong quá trình hoạt động, sai lầm, khuyết điểm của một Đảng, nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền là điều không thể tránh khỏi, bởi lẽ: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu”[4, tr.303]. Theo Hồ Chí Minh: “Có hoạt động thì khó tránh khỏi có khuyết điểm. Nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh người khác phê bình mình và kiên quyết sửa chữa. Chủ nghĩa cá nhân không dám tự phê bình, không muốn người ta phê bình mình, không kiên quyết sửa chữa. Vì vậy mà thoái bộ, chứ không tiến bộ được”[9, tr.335-336]. Người yêu cầu, Đảng phải có thái độ đúng đắn, khách quan, phải “công khai thừa nhận” những sai lầm, khuyết điểm, “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình”; và khi đã mắc khuyết điểm, sai lầm thì phải thật thà, kiên quyết sửa chữa: “Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mệnh”[4, tr.273]. Khi cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, tổ chức Đảng phải dùng cách “thuyết phục” giúp cho họ sửa chữa, không phải một sai lầm to lớn, mà đã vội cho họ là “cơ hội chủ nghĩa”, đã “cảnh cáo”, đã “tạm khai trừ”. Những cách quá đáng như thế đều không đúng.

* Xây dựng đạo đức của đảng viên

Đạo đức của người đảng viên tạo nên đạo đức của tổ chức Đảng. Hồ Chí Minh từng trăn trở suy nghĩ về một câu hỏi lớn và đã tự trả lời: “Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng lớn lên là do mỗi chúng ta lớn lên”[10, tr.272]. Xây dựng đạo đức của đảng viên thực chất là ra sức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành các phẩm chất đạo đức cách mạng để các giá trị đạo đức cách mạng của người cộng sản thấm sâu, lan toả trong mỗi cán bộ, đảng viên của toàn Đảng và nhân dân. Những phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên đó chính là:

Tận trung với Đảng, tận hiếu với dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để lại sau. Đó là nguyên tắc tối cao của Đảng. Mỗi một đảng viên phải ghi chắc điều đó. Chúng ta gọi nó là Đảng tính[5, tr.290]. Người giải thích, lợi ích của Đảng và lợi ích của dân tộc là thống nhất, trong lợi ích của dân tộc có lợi ích của Đảng. Người đảng viên trước tiên phải tuyệt đối trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, phải luôn đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích của Đảng, lợi ích bộ phận phải phục tùng lợi ích toàn cục, lợi ích tạm thời phải phục tùng lợi ích lâu dài.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập xuyên suốt, thống nhất từ tác phẩm Đường cách mệnh cho đến tác phẩm Di chúc. Đây là phẩm chất đạo đức cần thiết cho tất cả mọi người. Nhưng, đối với cán bộ, đảng viên thì cần, kiệm, liêm, chính lại đặc biệt quan trọng bởi đó là chuẩn mực, là thước đo hành vi “sống” của người cộng sản. Bởi: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[4, tr.122]. Muốn tránh điều trên thì cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, gắn việc rèn luyện với công tác thực tế.

Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung và phải sống có tình, có nghĩa, yêu thương con người. Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong sự đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”. Vì thế, tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia dân tộc, mang tính nhân loại, phổ quát, vì những giá trị chung của loài người. Theo Hồ Chí Minh, thương yêu con người phải thông qua những hành động và đặc biệt là phải tin vào con người; nghiêm khắc với mình, khoan dung với người, phải độ lượng, nâng đỡ con người; kể cả đối với những người lầm đường, lạc lối đã hối cải.

Rèn luyện bản lĩnh chống lại chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa cá nhân là “bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”[8, tr.611]. “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”[8, tr.611]. Do đó, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người cộng sản còn là quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu trước chủ nghĩa cá nhân, không chịu cúi đầu trước cái sai, cái xấu, cái ác.

2. Một số nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, lần đầu tiên Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề cập trực tiếp đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức và được nhấn mạnh phát triển thêm trong Nghị quyết Đại hội XIII, coi đó là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Về xây dựng đạo đức của tổ chức Đảng.Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định xây dựng Đảng chính là xây dựng hệ thống chỉnh thể các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đạo đức được xác lập để bảo đảm cho chính trị đúng đắn, sáng suốt, đi đúng phương hướng, giữ vững lập trường, quan điểm, bảo vệ được nền tảng tư tưởng của Đảng. Chỉ khi đạo đức được đảm bảo thì mới xây dựng Đảng về tổ chức được vững mạnh, đoàn kết nhất trí, đủ sức chiến đấu, đủ năng lực, bản lĩnh để lãnh đạo, cầm quyền. Và, đây cũng là điều kiện tiền đề để xây dựng dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ đức, đủ tài, có trí tuệ sáng suốt, có tư duy đổi mới, sáng tạo, nhất là có đủ uy tín trước Đảng, trước nhân dân khi thực thi trọng trách được giao phó[1, tr.34-35]. Bên cạnh đó, Nghị quyết Đại hội XIII cũng nêu bật vấn đề xây dựng Đảng phải gắn liền với chỉnh đốn Đảng nhằm giúp cho Đảng trong sạch, vững mạnh. Nghị quyết của Đảng chỉ rõ mười nhiệm vụ chủ yếu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu; tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới[1, tr.180-198].

Đặc biệt, một nội dung cần lưu ý là Đảng đã xác định cần phải “nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày”[1, tr.184]. Trên cơ sơ đó, phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng trong toàn Đảng theo những giá trị và chuẩn mực Đảng đã xác định. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng”[1, tr.184].

Nghị quyếtĐại hội XIII cũng xác định, phải kết hợp giữa giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt. Cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát vì cán bộ, đảng viên là những người trực tiếp đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân dân. Có như vậy, kỷ cương, kỷ luật của Đảng không những được phát huy hiệu lực, hiệu quả, mà uy tín, vai trò, vị thế, sức mạnh của Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường; ngăn chặn, đẩy lùi và đập tan luận điệu xuyên tạc, phản động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhân dân.

Về xây dựng đạo đức của đảng viên.Nghị quyếtĐại hội XIII đã khẳng định: “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được Trung ương và các cấp ủy, tổ chức đảng đề cao, nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có chuyển biến tích cực”[2, tr.173]. Đặc biệt, “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức đã góp phần đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”[2, tr.177-178]. Điều này đã góp phần quan trọng để đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Tuy nhiên, Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế: “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân... Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương...”[2, tr.178-179].

Để khắc phục những biểu hiện vi phạm những chuẩn mực đạo đức cách mạng, những hành vi phản đạo đức, Đảng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt các nhiệm vụ: “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan toả, thúc đẩy các phong trào cách mạng”[1, tr.183-184]. Đồng thời, phải: “Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”[1, tr.184].

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong xây dựng Đảng về đạo đức tại Học viện Chính trị khu vực I hiện nay

Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay có 276 đảng viên đang sinh hoạt tại 20 chi bộ trực thuộc. Trong những năm qua,công tác xây dựng Đảng về đạo đức được Học viện Chính trị khu vực I đặc biệt coi trọng và đã đạt được rất nhiều thành công, góp phần xây dựng Đảng bộ Học viện ngày càng đoàn kết, phát triển vững mạnh toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế như: Một số chi bộ chưa nhận thức sâu sắc yêu cầu xây dựng đạo đức của tổ chức đảng, một số đảng viên nói chưa đi đôi với làm, chưa thực sự nêu gương, còn có biểu hiện né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không phê phán, im lặng, đoàn kết xuôi chiều.... Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng Đảng về đạo đức, trong thời gian tới chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, cầnnghiên cứu, quán triệt, vận dụng và thấu triệt đầy đủ, có trách nhiệm hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng vào xây dựng Đảng về đạo đức tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I. Đồng thời, mỗi đảng viên phải coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng bộ và các cấp uỷ Đảng trực thuộc. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý, từ người đứng đầu Đảng bộ, cấp uỷ đảng trực thuộc cho đến mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng, hiểu sâu sắc, nắm vững nội dung công tác xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng đã khẳng định trong Nghị Quyết Đại hội XIII. Từ đó, xây dựng kế hoạch, đề ra các biện pháp tu dưỡng, thực hành cho phù hợp với từng đối tượng, điều kiện thực tế của mỗi đơn vị, cá nhân trong toàn Học viện.

Thứ hai, trong thời gian tới, đặc biệt coi trọng việc tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên; thực hành trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu. Biện pháp này yêu cầu cán bộ, đảng viên cần thấy rõ trách nhiệm, bổn phận của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và “không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng”. Không ngừng “Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”[2, tr.237]. Thực hành tốt biện pháp này sẽ góp phần nâng cao tính đảng, rèn luyện tính đảng của cán bộ, đảng viên và từng chi bộ trong đảng bộ và mỗi cán bộ, đảng viên; tạo sự lan tỏa các giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Từ đó, mỗi đảng viên của Đảng bộ sẽ tự ý thức về trách nhiệm, bổn phận của mình, coi đây là một phần quan trọng trong nhận thức, lời nói, hành động góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I trong sạch, vững mạnh.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải ra sức thực hành trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu, theo tinh thần “chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”, phải phát huy vai trò gương mẫu, nói đi đôi với làm của từng cấp ủy viên và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng trong xây dựng, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức. “Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”[1, tr.183-184]. “Nêu gương phải thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng”[2, tr.238]. Để nêu gương thực chất, hiệu quả cần khắc phục ngay những tồn tại hiện nay, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, tránh tình trạng làm cho có, cho xong, đối phó, hình thức, không thực chất.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng trong toàn Đảng bộ nhằm lan toả những giá trị, chuẩn mực mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định. Để thực hiện biện pháp này, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ chính trị (khóa XII) về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng thời gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng, chính đốn Đảng. Có như vậy, xây dựng Đảng về đạo đức mới thống nhất, đồng bộ, đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả thiết thực. Điều này cũng được nhấn mạnh tại Nghị quyết Đại hội XIII: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị”[1, tr.183]. Công tác này yêu cầu, mỗi cán bộ, đảng viên cần nắm vững, thực hành nghiêm Quy định số 5029-QĐ/HVCTQG ngày 26/10/2017 về ứng xử văn hóa của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Quy định số 2101 - QĐ/HVCTKVI ngày 12/10/2020 của Học viện Chính trị khu vực I về văn hóa công sở tại Học viện, nhất là những yêu cầu về phong cách văn hóa ứng xử của đội ngũ tại công sở, phong cách người cán bộ trường Đảng trong mối quan hệ với đồng nghiệp, với học viên và với tổ chứcQuy định về đạo đức nhà giáo của Học viện Chính trị khu vực I (theo Quyết định số 162-QĐ/HVCTKV I, ngày 19/02/ 2021) với 4 tiêu chí cơ bản về: Phẩm chất chính trị; đạo đức nghề nghiệp; lối sống tác phong; gìn giữ và bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo...

Với đặc thù là cơ quan chuyên nghiên cứu, giảng dạy về lý luận chính trị, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, mỗi nhà giáo - nhà khoa học cần tích cực đẩy mạnh nghiên cứu đề tài các cấp để góp phần “bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày”[1, tr.184].

Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên của Học viện Chính trị khu vực I phải thực sự sống với nhau “có lý, có tình”, bao dung, độ lượng, chân thành, đoàn kết giúp đỡ nhau. Cần tránh lối đoàn kết xuôi chiều, đạo đức “cửa miệng”, hô hào khẩu hiệu. Tuy nhiên, bao dung cũng không có nghĩa là bao che khiến cho đồng chí mình ngày càng “hư hỏng”, mà bao dung thì phải thường chia sẻ, hướng dẫn, giúp đỡ, gắn với kiểm tra, giám sát để đồng chí mình ngày càng tiến bộ, phát triển. Và đoàn kết cũng không có nghĩa là cả nể hay cố kết, co cụm với nhau, mà đoàn kết phải gắn liền với tự phê bình và phê bình để giúp mình và đồng chí mình cùng phát triển, ngày càng tiến bộ hơn.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên của Học viện Chính trị khu vực I phải thực sự thấm nhuần và làm theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Đường Cách mệnh: “Cần kiệm... Cả quyết sửa lỗi mình. Không hiếu danh, không kiêu ngạo, Nói thì phải làm”[3, tr.280].Đặc biệt là phải: “Ít lòng tham muốn về vật chất”[3, tr.280]. Điều đó phải hiểu làgiảm bớt, tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân tồn tại trong mỗi con người chứ không phải là triệt tiêu nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân. Ngược lại, nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân thì phải được động viên, khuyến khích và bảo vệ vì nó là động lực để xã hội phát triển. Vì thế, “ít lòng tham muốn về vật chất” chính là biện pháp tẩy trừ, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân ra khỏi mỗi con người, là điều kiện quan trọng, tiên quyết để có thể thực hiện thành công xây dựng Đảng về đạo đức trong toàn Đảng nói chung và trong Đảng bộ Học viện chính trị khu vực I nói riêng.

PGS,TS Nguyễn Vĩnh Thanh, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện phát biểu tại Lễ khai giảng Lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng năm 2022 dành cho đối tượng cấp ủy các chi bộ khối cơ quan, giáo viên chủ nhiệm các lớp Cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung, cán bộ các bộ phận tham mưu, giúp việc Đảng ủy.

Kết luận

Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề được Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của Người và định hướng xây dựng Đảng về đạo đức trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong toàn Đảng nói chung, tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I nói riêng là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần lan toả giá trị đạo đức cách mạng, giá trị văn hoá của Đảng tới mỗi cán bộ, đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên khi đã thấm nhuần và ra sức thực hành xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thì sẽ góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I ngày càng trong sạch, vững mạnh và phát triển bền vững.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 2.

[4] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 5.

[5] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 6.

[6] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 8.

[7] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 10.

[8] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 11.

[9] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 12.

[10] Hồ Chí Minh (2021), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 13.

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.