Chủ nhật, ngày 05/02/2023, 17:44

Vai trò của quản lý xã hội với sự ổn định và phát triển xã hội

PGS, TS Nguyễn Thị Tố Quyên
Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(LLCT) - Xã hội và quản lý nhà nước về xã hội luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu trên toàn thế giới quan tâm bởi vai trò, tầm ảnh hưởng và sự tác động của nó liên quan đến mọi mặt của đời sống con người. Trong xu thế phát triển, xã hội con người luôn vận động và biến hóa không ngừng. Để xã hội vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, đặt ra một yêu cầu đối với mọi nhà nước là công tác quản lý xã hội. Bài viết khái quát hoạt động quản lý sự phát triển gồm quản lý những yếu tố, những mối liên hệ, những điều kiện vật chất và tinh thần làm cho xã hội phát triển theo hướng ngày càng ổn định, tiến bộ và văn minh hơn. Trên cơ sở đó phân tích rõ vai trò của quản lý xã hội với sự ổn định và phát triển xã hội.

 

Từng bước làm thay đổi diện mạo, cảnh quan nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân - Ảnh: baothuathienhue.vn

Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, do nhu cầu cộng sinh cùng tồn tại và phát triển, con người đã tạo ra xã hội của mình. Xã hội là khái niệm chỉ một thực tại khách quan liên quan đến con người và mối quan hệ giữa con người với con người. Theo nghĩa rộng, xã hội là tất cả những gì thuộc con người và mối quan hệ của con người nhằm phân biệt nó với cái “tự nhiên”. “Xã hội” theo nghĩa này bao gồm toàn bộ những cá nhân con người liên kết nhau thành một hệ thống xác định. Trong đó, con người liên hệ nhau thông qua cả mạng lưới các quan hệ kinh tế (quan hệ trong sản xuất), quan hệ chính trị (quan hệ quyền lực); quan hệ văn hóa (quan hệ dựa trên nền tảng hệ giá trị và chuẩn mực của một nền văn hóa được định hình trong lịch sử) và quan hệ tư tưởng, tinh thần (tư tưởng giai cấp, tư tưởng dân tộc và tư tưởng tôn giáo).

Theo nghĩa hẹp, “xã hội” được hiểu như con người cụ thể với những mối quan hệ của họ tồn tại như mục đích, mục tiêu, cái cần phải đạt tới của các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Ở đây, con người tồn tại như tâm điểm, mục tiêu mà các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng của cả hệ thống xã hội hướng vào.

Với ý nghĩa này, vấn đề xã hội là những vấn đề nảy sinh giữa con người với con người trong quá trình phát triển sản xuất, sắp xếp hệ thống quyền lực, xác định vị thế, vai trò của từng chủ thể xã hội, của mỗi con người trong quá trình tổ chức, điều hành hệ thống xã hội. Vấn đề xã hội là những vấn đề liên quan chặt chẽ đến chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn, nhân bản của con người. Giải quyết vấn đề quản lý xã hội sẽ làm cho hệ thống xã hội ổn định, phát triển, tiến bộ, xã hội phồn vinh, hạnh phúc.

Để xã hội có thể vận hành và phát triển một cách trật tự và bền vững, đặt ra yêu cầu cấp thiết là công tác quản lý. Quản lý xã hội là việc các chủ thể quản lý - một người, một nhóm người, một tầng lớp xã hội... thông qua những phương thức khác nhau tác động vào các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, tinh thần, tình cảm của những người khác, những chủ thể khác nhằm hướng hoạt động của họ đến những mục tiêu đã được xác định trước. Để làm được điều này, cần làm rõ từng thành tố của quá trình quản lý. Những thành tố này bao gồm: các chủ thể quản lý, khách thể quản lý, trong đó đặc biệt chú ý tới mô hình tổ chức và đặc điểm các mối quan hệ của các chủ thể và khách thể quản lý; các vai trò và kỹ năng quản lý; các mắt khâu của quá trình quản lý, đặc biệt là thông tin và cách thức truyền thông trong hệ thống quản lý; hệ thống điều hành, kiểm tra, giám sát với tất cả những đặc trưng của hệ thống này.

Xã hội con người luôn vận động và biến hóa không ngừng. Do vậy, quản lý xã hội là quá trình quản lý sự vận động và phát triển của xã hội. Ở đây, để xã hội vận động và phát triển theo đúng những quy luật và yêu cầu của nó, phải chú ý tới những nhu cầu của mỗi chủ thể. Trong đó, chủ thể lớn là những nhóm, những tập đoàn xã hội, những cộng đồng xã hội (nhóm thứ cấp) và chủ thể nhỏ là mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi nhóm xã hội nhỏ (nhóm sơ cấp). Quản lý sự phát triển của xã hội là quản lý những yếu tố, những mối liên hệ, những điều kiện vật chất và tinh thần làm cho xã hội phát triển theo hướng ngày càng ổn định, tiến bộ và văn minh hơn. Quản lý phát triển xã hội thực chất là quản lý các lĩnh vực xã hội đã được xác định ở trên.

Quản lý xã hội là quá trình tác động, gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật... của Đảng và Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu chung, góp phần phát triển xã hội về mọi mặt. Hoạt động quản lý xã hội thực chất bắt nguồn từ sự phân công nguồn lực con người nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. Hoạt động quản lý xã hội gắn chặt với vai trò của Nhà nước. Trên thực tế, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã chủ động can thiệp vào quá trình quản lý xã hội, thực hiện quản lý sự phát triển xã hội trên các lĩnh vực sau:

Thứ nhất, Nhà nước quyết định những vấn đề liên quan đến ổn định và phát triển xã hội. Nhà nước là cơ quan tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, chính sách phát triển xã hội, huy động mọi chủ thể xã hội tham gia tích cực vào quá trình này.

Thứ hai, Nhà nước thông qua chức năng và nhiệm vụ và qua đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, tổ chức điều phối và quản lý các nguồn lực về con người, tài chính, vật chất... phục vụ cho phát triển xã hội.

Thứ ba, Nhà nước có vai trò thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực xử lý, giải quyết các vi phạm, bảo đảm công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

Quản lý xã hội có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Dưới góc nhìn về xã hội học, phát triển được hiểu như sự vận động, biến đổi theo chiều hướng tiến bộ của một hệ thống xã hội. Trong đó, mỗi chủ thể xã hội, nhóm người, tầng lớp, cộng đồng xã hội, tự hoàn thiện mình để thể hiện được những vai trò xã hội ứng với những vị thế xã hội mà họ đang giữ. Theo đó, phát triển vừa là sự vận động biến đổi của hệ thống xã hội theo những quy luật khách quan, vừa là sự điều chỉnh vị thế, vai trò của các chủ thể để phù hợp với xu hướng vận động, biến đổi thúc đẩy tiến bộ xã hội. Phát triển theo hướng này chính là quá trình thích ứng để hoàn thiện của từng cá nhân, từng nhóm, từng chủ thể theo những chuẩn mực xã hội đang biến đổi.

Ở cấp độ vĩ mô, phát triển xã hội chính là phát triển cộng đồng. Trong đó, phát triển làm cho cộng đồng thống nhất hơn, ổn định hơn, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc nâng cao chất lượng sống của mỗi con người và của toàn bộ hệ thống xã hội.

Phát triển xã hội là phát triển con người, là nâng cao chất lượng sống của mỗi người và của từng nhóm xã hội. Do đó, để phát triển xã hội phải đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề con người, những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, trong giải quyết các vấn đề chính trị, văn hóa, tư tưởng. Nghĩa là giải quyết vấn đề con người, vấn đề nhân văn, nhân đạo trong quá trình phát triển kinh tế, sắp xếp hệ thống quyền lực xã hội, thực hiện tốt các hoạt động quản lý nhằm xây dựng và phát triển về văn hóa, ổn định về tư tưởng, định hướng tiến bộ, văn minh cho mỗi con người và cho cả xã hội. Phát triển xã hội, theo nghĩa này là phát triển toàn diện con người, tạo môi trường thuận lợi cho mối quan hệ của con người với con người được công bằng, bình đẳng...

Dù hiểu theo nghĩa nào, “phát triển” chính là sự vận động, biến đổi theo chiều hướng đi lên của một sự vật và hiện tượng. Đó là một quá trình phát triển diễn ra từ từ, từng bước, thường được gọi là sự tiến hoá.

Ở nghĩa rộng hơn, “phát triển xã hội” là sự tăng trưởng, mở rộng về cả bề rộng lẫn chiều sâu của hệ thống xã hội. Trong đó, sự tăng trưởng về kinh tế bao gồm sự mở rộng các lĩnh vực, các ngành sản xuất, công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ... Chỉ số hiệu quả cuối cùng chính là tốc độ tăng GDP bình quân đầu người.

Về chính trị, hệ thống quyền lực xã hội được thiết lập, củng cố và vận hành theo đúng những quy luật vốn có của nó. Trong đó, hệ thống luật pháp được hoàn thiện; hệ thống quyền lực xã hội được tổ chức và vận hành đúng theo những chuẩn mực mà luật pháp quy định. Vì thế, vai trò của các nhóm, các tầng lớp xã hội được xác lập theo đúng thực lực hiện có và theo đúng sự chi phối của những quy luật khách quan mà xã hội đang vận động, biến đổi, tuân theo.

Về mặt xã hội, nhân tố con người được phát huy. Những giá trị nhân đạo, nhân văn được bảo vệ. Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng được phân tích và giải quyết. Phát triển xã hội là làm cho xã hội vừa mở rộng về quy mô, vừa tăng cường chất lượng của toàn hệ thống, của cộng đồng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta thu được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội đã và đang chuyển mình mạnh mẽ. Sự tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã tạo nên sức mạnh nội lực cho đất nước, đói nghèo lạc hậu đang dần được đẩy lùi, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Những thành tựu đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự thành công trong công tác quản lý xã hội và củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân, tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội.

Song song với đổi mới kinh tế, nước ta từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo được Nhà nước chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tất cả những kết quả đó đã khẳng định vai trò của quản lý nhà nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Trong điều kiện hiện nay, hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện và sâu rộng hơn sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới, tạo ra nhiều cơ hội hợp tác cùng phát triển. Sẽ có không ít cơ hội để Việt Nam phát huy thế mạnh của mình, tranh thủ nguồn vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới để phát triển.

Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, cũng còn những hạn chế, yếu kém trong thực hành quản lý xã hội ở nước ta trong những năm qua: “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(1), ở một số nơi, các cấp ủy, chính quyền chưa làm tốt vai trò quản lý, công tác lãnh đạo chưa sâu sát, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác quản lý xã hội.

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những bất cập trong công tác quản lý xã hội ở nước ta thời gian qua. Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân(2). Do đó, cần tăng cường quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội khẳng định cần chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ và phải tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó trước hết là quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển(3).

Để góp phần bảo đảm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN vào giữa thế kỷ XXI, Đại hội XIII nhấn mạnh việc thực hiện có hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội như là một trong những điều kiện có tính chất quyết định: Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người(4); Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội(5) cũng như quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội(6).

Như vậy, Nhà nước là chủ thể quan trọng trong công tác quản lý, chỉ đạo, liên kết, phối hợp thực hiện các chương trình dự án, kế hoạch và chính sách phát triển xã hội. Ở đây, bên cạnh việc liên kết các chủ thể trong nước, Nhà nước còn chủ động mở rộng hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp cả trong và ngoài nước cho việc quản lý và phát triển xã hội bền vững. Nhà nước ngày càng quan tâm tới hoàn thiện thể chế quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội, đề xuất các chính sách... thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển xã hội.

Ở nước ta, cơ sở kinh tế - xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng. Quản lý phát triển xã hội trong giai đoạn hiện nay đang có không ít các vấn đề cần nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng trong quá trình xây dựng và phát triển.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế tri thức đang hình thành, đặt nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người. Toàn cầu hóa, hội nhập vẫn là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới. Để hội nhập đủ sức cạnh tranh, giữ vững độc lập chủ quyền và tận dụng mọi cơ hội phát triển thì Nhà nước cần làm tốt công tác quản lý xã hội để tạo dựng, phát triển thực lực cho thực hiện các mục tiêu phát triển. Công tác quản lý xã hội cần chú trọng những nội dung sau:

Thứ nhất, làm tốt công tác quản lý trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm điều kiện lao động sản xuất và điều kiện sống cho cộng đồng dân cư. Ở đây, hệ thống cấp điện, cấp nước, thông tin, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, thương mại, dịch vụ đi lại và nghỉ ngơi vui chơi, giải trí... là rất quan trọng. Đây là những dịch vụ vừa phục vụ cho sự phát triển kinh tế, vừa nâng cao chất lượng sống cho người dân và cả cộng đồng.

Trong thời đại kinh tế tri thức, dịch vụ thông tin và giáo dục phải được coi trọng hàng đầu, phát triển xã hội phải đặc biệt chú ý.

Thứ hai, quản lý và giải quyết vấn đề dân số, vấn đề lao động và việc làm. Đây là một trong những lĩnh vực quan trọng của đời sống mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Để bảo đảm sự phát triển xã hội bền vững phải đặc biệt quan tâm vấn đề này. Bởi lẽ quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư sẽ ảnh hưởng quyết định vấn đề lao động, việc làm. Xã hội sẽ phát triển, ổn định thế nào phụ thuộc không ít vào những yếu tố này.

Thứ ba, ổn định và phát triển xã hội liên quan đến thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Vấn đề này chịu tác động không nhỏ của tình trạng phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý xã hội cần có những biện pháp giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm xã hội khác nhau thông qua các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội một cách hiệu quả.

Thứ tư, phát triển xã hội còn là việc bảo đảm an sinh xã hội cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Việc quan tâm giải quyết những vấn đề về y tế, giáo dục, về trợ giúp những nhóm người yếu thế là hết sức cần thiết. Ngoài ra cần quan tâm chú trọng thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để xã hội phát triển ổn định, bền vững trên tinh thần nhân đạo, nhân văn.

Thứ năm, con người sống ngoài yếu tố cá nhân còn phải liên kết cộng đồng. Công tác quản lý và phát triển xã hội là làm cho cộng đồng giảm mâu thuẫn, xung đột. Những yếu tố làm bất ổn trong cộng đồng như sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc, tập quán văn hóa cần được quan tâm giải quyết. Phát triển xã hội là làm cho cộng đồng sống có văn hóa và an toàn. Trong đó sự đa dạng về văn hóa cần được tôn trọng. Những yếu tố tiến bộ, đặc sắc về văn hóa cần được giữ gìn và phát huy.

Thứ sáu, phát triển xã hội, nhất là phát triển bền vững cần quan tâm giải quyết vấn đề môi trường, phát triển hiện nay cần bảo đảm tương lai cho thế hệ tương lai. Do vậy, công tác quản lý và bảo vệ môi trường cần đưa ra những biện pháp cụ thể, khả thi. Ở đây phải làm sao phát triển không làm mất cân bằng hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường nước, môi trường đất và môi trường không khí; phải làm sao thảm thực vật và các loài động vật được bảo tồn. Biến đổi khí hậu do hoạt động của con người cần được giảm thiểu và quản lý chặt chẽ, đồng thời cần đưa ra các biện pháp ứng phó kịp thời.

 Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị số 535 (tháng 9-2022)

_________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.168-169.

(2), (3), (4), (5), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, NXb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.83-84, 119, 147, 148, 330.

Đọc thêm

Hành trình từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản của đồng chí Nguyễn Chí Diểu

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thùy

(GDLL) - Nguyễn Chí Diểu (1908-1939), một trong những đảng viên thuộc lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam. Cuộc đời đồng chí là tấm gương cao đẹp của người cộng sản hết lòng vì nước, vì dân. Bài viết tìm hiểu quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, qua đó thấy được sự kiên định, vì nước vì dân của đồng chí.

Hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang hiện nay

Tác giả: Trần Văn Hiển

(GDLL) - Liên kết chuỗi giá trị nông sản là mô hình kinh tế đem lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển nông nghiệp bền vững trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu. Trên cơ sở những nhận thức cơ bản về chuỗi giá trị nông sản: khái niệm, hình thức, sơ đồ, mô hình liên kết…, bài viết khái quát kết quả, vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang.

30 năm quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - 2022): Thành tựu và triển vọng

Tác giả: NGUYỄN VĂN ĐỨC - NGUYỄN THỊ THÚY

(GDLL) - Trải qua 30 năm, quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc đã có bước phát triển toàn diện, bền vững, mang lại lợi ích cho cả hai dân tộc. Bài viết khái quát những thành tựu tốt đẹp đã gặt hái được trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc 30 năm qua (1992 - 2022) và chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại. Từ đó, đưa ra định hướng, khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc lên tầm cao mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tác giả: PGS. TS. Phạm Ngọc Linh

(TG) - Sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN đã nâng cao vai trò của LHHVN trong việc tập hợp đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Các tổ chức KH&CN này được đánh giá là nhân tố mới ở Việt Nam trong công tác tham gia xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới hướng tới mô hình làng thông minh

Tác giả: TS ĐỖ THỊ PHƯƠNG HOA

(LLCT) - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của nhân loại. Chuyển đổi số trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng làng thông minh ở nước ta, chỉ ra thực trạng một số mô hình làng thông minh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh trong thời gian tới.