Từng bước làm thay đổi diện mạo, cảnh quan nông
thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân - Ảnh: baothuathienhue.vn
Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài
người, do nhu cầu cộng sinh cùng tồn tại và phát triển, con người đã tạo ra xã
hội của mình. Xã hội là khái niệm chỉ một thực tại khách quan liên quan đến con
người và mối quan hệ giữa con người với con người. Theo nghĩa rộng, xã hội là
tất cả những gì thuộc con người và mối quan hệ của con người nhằm phân biệt nó
với cái “tự nhiên”. “Xã hội” theo nghĩa này bao gồm toàn bộ những cá nhân con
người liên kết nhau thành một hệ thống xác định. Trong đó, con người liên hệ
nhau thông qua cả mạng lưới các quan hệ kinh tế (quan hệ trong sản xuất), quan
hệ chính trị (quan hệ quyền lực); quan hệ văn hóa (quan hệ dựa trên nền tảng hệ
giá trị và chuẩn mực của một nền văn hóa được định hình trong lịch sử) và quan
hệ tư tưởng, tinh thần (tư tưởng giai cấp, tư tưởng dân tộc và tư tưởng tôn
giáo).
Theo nghĩa hẹp, “xã hội” được hiểu như
con người cụ thể với những mối quan hệ của họ tồn tại như mục đích, mục tiêu,
cái cần phải đạt tới của các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Ở
đây, con người tồn tại như tâm điểm, mục tiêu mà các hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa, tư tưởng của cả hệ thống xã hội hướng vào.
Với ý nghĩa này, vấn đề xã hội là những
vấn đề nảy sinh giữa con người với con người trong quá trình phát triển sản
xuất, sắp xếp hệ thống quyền lực, xác định vị thế, vai trò của từng chủ thể xã
hội, của mỗi con người trong quá trình tổ chức, điều hành hệ thống xã hội. Vấn
đề xã hội là những vấn đề liên quan chặt chẽ đến chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn,
nhân bản của con người. Giải quyết vấn đề quản lý xã hội sẽ làm cho hệ thống xã
hội ổn định, phát triển, tiến bộ, xã hội phồn vinh, hạnh phúc.
Để xã hội có thể vận hành và phát triển
một cách trật tự và bền vững, đặt ra yêu cầu cấp thiết là công tác quản lý.
Quản lý xã hội là việc các chủ thể quản lý - một người, một nhóm người, một
tầng lớp xã hội... thông qua những phương thức khác nhau tác động vào các quan
hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, tinh thần, tình cảm của những người
khác, những chủ thể khác nhằm hướng hoạt động của họ đến những mục tiêu đã được
xác định trước. Để làm được điều này, cần làm rõ từng thành tố của quá trình
quản lý. Những thành tố này bao gồm: các chủ thể quản lý, khách thể quản lý,
trong đó đặc biệt chú ý tới mô hình tổ chức và đặc điểm các mối quan hệ của các
chủ thể và khách thể quản lý; các vai trò và kỹ năng quản lý; các mắt khâu của
quá trình quản lý, đặc biệt là thông tin và cách thức truyền thông trong hệ
thống quản lý; hệ thống điều hành, kiểm tra, giám sát với tất cả những đặc
trưng của hệ thống này.
Xã hội con người luôn vận động và biến
hóa không ngừng. Do vậy, quản lý xã hội là quá trình quản lý sự vận động và
phát triển của xã hội. Ở đây, để xã hội vận động và phát triển theo đúng những
quy luật và yêu cầu của nó, phải chú ý tới những nhu cầu của mỗi chủ thể. Trong
đó, chủ thể lớn là những nhóm, những tập đoàn xã hội, những cộng đồng xã hội
(nhóm thứ cấp) và chủ thể nhỏ là mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi nhóm xã hội
nhỏ (nhóm sơ cấp). Quản lý sự phát triển của xã hội là quản lý những yếu tố,
những mối liên hệ, những điều kiện vật chất và tinh thần làm cho xã hội phát
triển theo hướng ngày càng ổn định, tiến bộ và văn minh hơn. Quản lý phát triển
xã hội thực chất là quản lý các lĩnh vực xã hội đã được xác định ở trên.
Quản lý xã hội là quá trình tác động, gây
ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ
thống các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật... của Đảng và Nhà nước
nhằm đạt được mục tiêu chung, góp phần phát triển xã hội về mọi mặt. Hoạt động
quản lý xã hội thực chất bắt nguồn từ sự phân công nguồn lực con người nhằm đạt
được hiệu quả cao hơn. Hoạt động quản lý xã hội gắn chặt với vai trò của Nhà
nước. Trên thực tế, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã chủ động can thiệp
vào quá trình quản lý xã hội, thực hiện quản lý sự phát triển xã hội trên các
lĩnh vực sau:
Thứ nhất,
Nhà nước quyết định những vấn đề liên quan đến ổn định và phát triển xã hội.
Nhà nước là cơ quan tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, chính sách
phát triển xã hội, huy động mọi chủ thể xã hội tham gia tích cực vào quá trình
này.
Thứ hai, Nhà nước thông qua
chức năng và nhiệm vụ và qua đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, tổ chức
điều phối và quản lý các nguồn lực về con người, tài chính, vật chất... phục vụ
cho phát triển xã hội.
Thứ ba, Nhà nước có vai trò
thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực xử
lý, giải quyết các vi phạm, bảo đảm công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Quản lý xã hội có vai trò quan trọng đối
với sự phát triển xã hội. Dưới góc nhìn về xã hội học, phát triển được hiểu như
sự vận động, biến đổi theo chiều hướng tiến bộ của một hệ thống xã hội. Trong
đó, mỗi chủ thể xã hội, nhóm người, tầng lớp, cộng đồng xã hội, tự hoàn thiện
mình để thể hiện được những vai trò xã hội ứng với những vị thế xã hội mà họ
đang giữ. Theo đó, phát triển vừa là sự vận động biến đổi của hệ thống xã hội
theo những quy luật khách quan, vừa là sự điều chỉnh vị thế, vai trò của các
chủ thể để phù hợp với xu hướng vận động, biến đổi thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Phát triển theo hướng này chính là quá trình thích ứng để hoàn thiện của từng
cá nhân, từng nhóm, từng chủ thể theo những chuẩn mực xã hội đang biến đổi.
Ở cấp độ vĩ mô, phát triển xã hội chính
là phát triển cộng đồng. Trong đó, phát triển làm cho cộng đồng thống nhất hơn,
ổn định hơn, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc nâng cao chất lượng sống
của mỗi con người và của toàn bộ hệ thống xã hội.
Phát triển xã hội là phát triển con người,
là nâng cao chất lượng sống của mỗi người và của từng nhóm xã hội. Do đó, để
phát triển xã hội phải đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề con người, những vấn
đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, trong giải quyết các vấn đề
chính trị, văn hóa, tư tưởng. Nghĩa là giải quyết vấn đề con người, vấn đề nhân
văn, nhân đạo trong quá trình phát triển kinh tế, sắp xếp hệ thống quyền lực xã
hội, thực hiện tốt các hoạt động quản lý nhằm xây dựng và phát triển về văn
hóa, ổn định về tư tưởng, định hướng tiến bộ, văn minh cho mỗi con người và cho
cả xã hội. Phát triển xã hội, theo nghĩa này là phát triển toàn diện con người,
tạo môi trường thuận lợi cho mối quan hệ của con người với con người được công
bằng, bình đẳng...
Dù hiểu theo nghĩa nào, “phát triển” chính
là sự vận động, biến đổi theo chiều hướng đi lên của một sự vật và hiện tượng.
Đó là một quá trình phát triển diễn ra từ từ, từng bước, thường được gọi là sự
tiến hoá.
Ở nghĩa rộng hơn, “phát triển xã hội” là
sự tăng trưởng, mở rộng về cả bề rộng lẫn chiều sâu của hệ thống xã hội. Trong
đó, sự tăng trưởng về kinh tế bao gồm sự mở rộng các lĩnh vực, các ngành sản
xuất, công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ... Chỉ số hiệu quả cuối
cùng chính là tốc độ tăng GDP bình quân đầu người.
Về chính trị, hệ thống quyền lực xã hội
được thiết lập, củng cố và vận hành theo đúng những quy luật vốn có của nó.
Trong đó, hệ thống luật pháp được hoàn thiện; hệ thống quyền lực xã hội được tổ
chức và vận hành đúng theo những chuẩn mực mà luật pháp quy định. Vì thế, vai
trò của các nhóm, các tầng lớp xã hội được xác lập theo đúng thực lực hiện có
và theo đúng sự chi phối của những quy luật khách quan mà xã hội đang vận động,
biến đổi, tuân theo.
Về mặt xã hội, nhân tố con người được
phát huy. Những giá trị nhân đạo, nhân văn được bảo vệ. Nhiều vấn đề xã hội nảy
sinh trong quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng được phân
tích và giải quyết. Phát triển xã hội là làm cho xã hội vừa mở rộng về quy mô,
vừa tăng cường chất lượng của toàn hệ thống, của cộng đồng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau hơn 35 năm
đổi mới, đất nước ta thu được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều lĩnh vực trong
đời sống kinh tế - xã hội đã và đang chuyển mình mạnh mẽ. Sự tăng trưởng liên
tục với tốc độ khá cao của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã tạo nên
sức mạnh nội lực cho đất nước, đói nghèo lạc hậu đang dần được đẩy lùi, đời
sống nhân dân từng bước được cải thiện. Những thành tựu đó khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự thành công trong công tác quản lý xã hội và củng cố lòng
tin của quần chúng nhân dân, tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội.
Song song với đổi mới kinh tế, nước ta
từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm
chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục -
đào tạo được Nhà nước chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học -
công nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm
vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Tất cả những kết quả đó đã khẳng định vai trò của quản lý nhà nước
trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Trong điều kiện hiện nay, hội nhập quốc
tế ngày càng toàn diện và sâu rộng hơn sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng
quan hệ với các quốc gia trên thế giới, tạo ra nhiều cơ hội hợp tác cùng phát
triển. Sẽ có không ít cơ hội để Việt Nam phát huy thế mạnh của mình, tranh thủ
nguồn vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới để phát triển.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt
được, cũng còn những hạn chế, yếu kém trong thực hành quản lý xã hội ở nước ta
trong những năm qua: “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực
còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang
tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết
nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(1),
ở một số nơi, các cấp ủy, chính quyền chưa làm tốt vai trò quản lý, công tác
lãnh đạo chưa sâu sát, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức đầy
đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác quản lý xã hội.
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những bất
cập trong công tác quản lý xã hội ở nước ta thời gian qua. Quản lý phát triển
xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa
được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể
chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn,
tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây
bức xúc trong dư luận nhân dân(2). Do đó, cần tăng cường
quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Đại
hội khẳng định cần chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không
để bị động, bất ngờ và phải tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn,
trong đó trước hết là quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển(3).
Để góp phần bảo đảm mục tiêu đưa Việt Nam
trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN vào giữa thế kỷ XXI, Đại hội
XIII nhấn mạnh việc thực hiện có hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội
như là một trong những điều kiện có tính chất quyết định: Tăng cường quản lý
phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các
chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người(4);
Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội
và môi trường, trên cơ sở đó, phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả
phát triển xã hội(5) cũng như quản lý phát triển xã hội
có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội(6).
Như vậy, Nhà nước là chủ thể quan trọng
trong công tác quản lý, chỉ đạo, liên kết, phối hợp thực hiện các chương trình
dự án, kế hoạch và chính sách phát triển xã hội. Ở đây, bên cạnh việc liên kết
các chủ thể trong nước, Nhà nước còn chủ động mở rộng hợp tác quốc tế, phát huy
sức mạnh tổng hợp cả trong và ngoài nước cho việc quản lý và phát triển xã hội
bền vững. Nhà nước ngày càng quan tâm tới hoàn thiện thể chế quản lý, giải
quyết các vấn đề xã hội, đề xuất các chính sách... thúc đẩy sự tăng trưởng và
phát triển xã hội.
Ở nước ta, cơ sở kinh tế - xã hội của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng. Quản lý phát triển xã hội
trong giai đoạn hiện nay đang có không ít các vấn đề cần nghiên cứu, thử nghiệm
và áp dụng trong quá trình xây dựng và phát triển.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, nền kinh tế tri thức đang hình thành, đặt nền tảng cho sự phát
triển của xã hội loài người. Toàn cầu hóa, hội nhập vẫn là xu thế tất yếu của
mọi quốc gia trên thế giới. Để hội nhập đủ sức cạnh tranh, giữ vững độc lập chủ
quyền và tận dụng mọi cơ hội phát triển thì Nhà nước cần làm tốt công tác quản
lý xã hội để tạo dựng, phát triển thực lực cho thực hiện các mục tiêu phát
triển. Công tác quản lý xã hội cần chú trọng những nội dung sau:
Thứ nhất,
làm tốt công tác quản lý trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm
điều kiện lao động sản xuất và điều kiện sống cho cộng đồng dân cư. Ở đây, hệ
thống cấp điện, cấp nước, thông tin, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
thương mại, dịch vụ đi lại và nghỉ ngơi vui chơi, giải trí... là rất quan
trọng. Đây là những dịch vụ vừa phục vụ cho sự phát triển kinh tế, vừa nâng cao
chất lượng sống cho người dân và cả cộng đồng.
Trong thời đại kinh tế tri thức, dịch vụ
thông tin và giáo dục phải được coi trọng hàng đầu, phát triển xã hội phải đặc
biệt chú ý.
Thứ hai, quản lý và giải quyết
vấn đề dân số, vấn đề lao động và việc làm. Đây là một trong những lĩnh vực
quan trọng của đời sống mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Để bảo đảm sự phát
triển xã hội bền vững phải đặc biệt quan tâm vấn đề này. Bởi lẽ quy mô dân số,
cơ cấu dân số và phân bố dân cư sẽ ảnh hưởng quyết định vấn đề lao động, việc
làm. Xã hội sẽ phát triển, ổn định thế nào phụ thuộc không ít vào những yếu tố
này.
Thứ ba, ổn định và phát triển
xã hội liên quan đến thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Vấn đề này chịu
tác động không nhỏ của tình trạng phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo. Điều
này đòi hỏi các nhà quản lý xã hội cần có những biện pháp giảm thiểu khoảng
cách giàu nghèo giữa các nhóm xã hội khác nhau thông qua các chính sách an
sinh, phúc lợi xã hội một cách hiệu quả.
Thứ tư, phát triển xã hội còn
là việc bảo đảm an sinh xã hội cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Việc quan tâm
giải quyết những vấn đề về y tế, giáo dục, về trợ giúp những nhóm người yếu thế
là hết sức cần thiết. Ngoài ra cần quan tâm chú trọng thực hiện bình đẳng giới,
tạo điều kiện để xã hội phát triển ổn định, bền vững trên tinh thần nhân đạo,
nhân văn.
Thứ năm, con người sống ngoài
yếu tố cá nhân còn phải liên kết cộng đồng. Công tác quản lý và phát triển xã
hội là làm cho cộng đồng giảm mâu thuẫn, xung đột. Những yếu tố làm bất ổn
trong cộng đồng như sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc, tập quán văn
hóa cần được quan tâm giải quyết. Phát triển xã hội là làm cho cộng đồng sống
có văn hóa và an toàn. Trong đó sự đa dạng về văn hóa cần được tôn trọng. Những
yếu tố tiến bộ, đặc sắc về văn hóa cần được giữ gìn và phát huy.
Thứ sáu, phát triển xã hội,
nhất là phát triển bền vững cần quan tâm giải quyết vấn đề môi trường, phát
triển hiện nay cần bảo đảm tương lai cho thế hệ tương lai. Do vậy, công tác
quản lý và bảo vệ môi trường cần đưa ra những biện pháp cụ thể, khả thi. Ở đây
phải làm sao phát triển không làm mất cân bằng hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường
nước, môi trường đất và môi trường không khí; phải làm sao thảm thực vật và các
loài động vật được bảo tồn. Biến đổi khí hậu do hoạt động của con người cần
được giảm thiểu và quản lý chặt chẽ, đồng thời cần đưa ra các biện pháp ứng phó
kịp thời.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị số 535 (tháng 9-2022)
_________________
(1) ĐCSVN: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.168-169.
(2),
(3), (4), (5), (6)
ĐCSVN: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, NXb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, tr.83-84, 119, 147, 148, 330.