Từ khoá: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đội ngũ cán bộ, đảng
viên; thời kỳ 1930-1975; Việt Nam.

Ngày
7-4-1961, hơn 5.000 đồng bào xã X, tỉnh Bến Tre đã míttinh tẩy chay
trò hề
bầu cử tổng thống lần thứ hai của Mỹ - Diệm
(Ảnh
tư liệu: TTXVN)
Đặt vấn đề
Thời kỳ 1930 - 1975, đất nước ở những năm tháng chiến tranh, khó khăn, gian
khổ, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng,
nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, chệch hướng, mất ý chí chiến
đấu. Trong bối cảnh đó, Đảng đã rèn luyện
được một đội ngũ cán bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu có bản lĩnh, tư
duy chính trị sắc bén, trải nghiệm thực tiễn phong phú, có đạo đức cách mạng để
chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều sóng gió. Hiện nay, đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, hội
nhập khu vực và quốc tế, mặc dù có nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít khó
khăn, thách thức đã tác động đến tư tưởng chính trị và đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó một bộ phận cán bộ suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”. Hơn lúc nào hết, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng là vấn đề rất cấp thiết, cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục,
trong đó việc phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1.
Vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
thời kỳ 1930-1975
Thứ
nhất, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn giữ vững chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng
tư tưởng của Đảng
Với tầm quan trọng của hệ tư tưởng, lý luận dẫn đường, ngay từ khi ra đời,
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hội nghị
thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua đã khẳng định: Lực lượng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam; Về lý luận dẫn đường, Đảng
theo Chủ nghĩa Mác-Lênin[1, tr.2]. Như vậy ngay trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định rõ nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đại hội II của Đảng
(tháng 2-1951) đã thảo luận và thông qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam,
Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ mới xác định rõ Đảng lấy Chủ nghĩa
Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng.
Trong kháng chiến chống
đế quốc Mỹ, để giữ vững Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng, đội
ngũ cán bộ, đảng viên luôn coi trọng việc bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin trong bối
cảnh quốc tế có những diễn biến phức tạp, đòi xét lại Chủ nghĩa Mác-Lênin. Những năm 50, 60 của thế kỷ XX,
trên thế giới nổi lên chủ nghĩa cơ hội, xét lại chống lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin là lỗi thời, lạc hậu, thậm chí xuyên tạc và vứt bỏ những nguyên
lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong tình hình đó, với tinh thần bảo vệ vững
chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, Nghị quyết Trung ương 9 khóa III (tháng
12-1963) về “Tình hình thế giới và nhiệm vụ
quốc tế của Đảng” đã nhấn mạnh: “cần
ra sức đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, chống chủ
nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh là nguy cơ chủ yếu của phong trào cộng
sản quốc tế, đồng thời chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt phái, nắm vững
những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin và bảo đảm vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách có sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của thế giới và của mỗi nước”[3, tr. 732]. Đảng khẳng định đây là một một điều kiện
rất quan trọng bảo đảm thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,
đứng đầu là đế quốc Mỹ, giành thắng lợi lớn hơn nữa cho hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Với lập trường kiên định và rõ ràng, để bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, chống chủ nghĩa xét lại và các khuynh hướng cơ hội chủ
nghĩa khác, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã kiên cường đấu tranh, không nhượng bộ về
nguyên tắc, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Trước những sóng gió của
cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại sự chống phá của các phần tử phản động, cơ hội,
Đảng luôn giữ vững đoàn kết, thống nhất về tư tưởng, lý luận, lãnh đạo nhân dân
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Thứ hai, đội ngũ cán
bộ, đảng viên nêu cao tinh thần đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái của
các thế lực thù địch
Giai đoạn 1930-1945, Đảng tuy mới thành lập nhưng có một
đội ngũ cán bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tư duy lý luận sắc bén đã đấu tranh quyết liệt với thế lực tờrôtkít để
bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng. Trước tình hình nhóm tờrôtkít đã
đề ra những chủ trương đối lập về chiến lược, sách lược với Đảng, đồng thời đưa
ra những khẩu hiệu “tả” để lừa bịp, lôi kéo quần chúng, làm nhân dân lầm tưởng
họ là những người cách mạng. Những người đứng đầu Đảng đã kịp thời phê phán và
chống lại sự phá hoại của nhóm tờrôtkít ở Việt Nam. Tổng Bí thư Hà Huy Tập với
bút danh Thanh Hương đã viết tác phẩm “Tờ-rốt-xky và phản cách mạng” xuất bản
tại Sài Gòn vào năm 1937, kiên quyết bảo vệ lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chiến lược, sách lược của Quốc tế Cộng sản,
bảo vệ đường lối, chính sách củ̉a Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 7-1939, Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm "Tự chỉ trích" nêu rõ bản chất và
thủ đoạn của những phần tử tờrốtkít: “Bọn tờrốtkít, xét đến cốt tủy của chúng
thì chúng chỉ gồm những cặn bã của phong trào nhóm
họp nhau để chống cộng sản, chống cách mệnh, chia rẽ và phá hoại phong trào
quần chúng”[2, tr. 627-628], “núp dưới bóng cờ cộng sản”, “nhiều khi mạo nhận là
cộng sản để chia rẽ”, vì thế cần phải vạch trần mưu mô khiêu khích của
phái tờrốtkít. “Tự chỉ trích” đã đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của phái tờrốtkít tạo sự thống nhất
về nhận thức về tư tưởng, chính trị và hành động trong toàn Đảng, góp phần quan
trọng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và sự thống nhất, đoàn
kết trong nội bộ Đảng trước sự tấn công của các thế lực thù địch. Sự sắc bén về
tư duy chính trị của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã làm sáng tỏ đường lối, quan
điểm của Đảng. Tác phẩm có tác dụng rất quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng
của Đảng,thể hiện tinh thần trách nhiệm cao,
kiên quyết đấu tranh phê phán những khuynh hướng và quan điểm sai lầm, bảo vệ
đường lối đúng đắn của Đảng.
Tinh thần và bản lĩnh của
đội ngũ cán bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu trong việc lãnh đạo đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tiếp tục được phát huy và được thể hiện
đậm nét xuyên suốt trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên đã phát huy bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần độc
lập sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện lập trường “tả khuynh”,
“hữu khuynh”, những biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm tư tưởng, thỏa
hiệp vô nguyên tắc; tạo được sự thống nhất về quan điểm giai cấp, lập trường tư
tưởng chính trị, về đường lối cách mạng, sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức,
ý chí và hành động trong Đảng. Một
trong những nhà lý luận chiến lược của Đảng, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết
nhiều tác phẩm lý luận có giá trị: “Kháng chiến nhất định thắng lợi” (1947); “Chủ
nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam” (1948); “Bàn về cách mạng Việt
Nam” (1951)... Những tác phẩm của Tổng Bí thư Trường Chinh
đã làm rõ những vấn đề lý luận căn bản nhất của cách mạng, đó là lý luận về việc
vận dụng, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh
cụ thể của đất nước, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với cách mạng
Việt Nam; và làm rõ lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần làm phong phú hơn kho tàng lý luận cách mạng
Việt Nam.
Giai đoạn 1954 - 1975, công tác bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã bám sát thực tiễn và nhiệm vụ chính trị, góp
phần giữ vững sự lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Ở miền
Bắc, thông qua các cuộc vận động phát triển đảng viên như “Lớp đảng viên 6-1”
(năm 1960), “cuộc vận động nâng cao chất
lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh” (năm 1970 - 1972), các cuộc chỉnh huấn lớn về tư tưởng
như cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961... cán bộ, đảng viên nêu cao
tinh thần vun đắp lý tưởng, động lực về tinh thần làm chủ Nhà nước, tinh thần tập
thể xã hội chủ nghĩa, hăng hái phục vụ sản xuất, cần kiệm xây dựng Tổ quốc;
kiên quyết phòng chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô lãng phí, tác phong quan liêu
mệnh lệnh, thái độ bảo thủ, rụt rè, cầu an hưởng lạc, ngại khó, ngại khổ, so bì
đãi ngộ. Ở miền Nam, công tác chỉnh huấn tại Khu ủy miền Đông Nam Bộ tập trung
vào việc “Không ngừng bồi dưỡng lập trường giai cấp, tinh thần cách mạng tiến
công, kiên trì cách mạng, tự lực, tự cường, quan điểm bạo lực, quan điểm quần
chúng, quan điểm thực tiễn, phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng quyết tâm
cao, tác phong làm việc khẩn trương, chống mọi khuynh hướng hữu khuynh, nghỉ ngơi, xả hơi, tư tưởng chủ quan, cục
bộ, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, gia trưởng, thiếu dân chủ, tự do, vô kỷ
luật, công thần, địa vị và những biểu hiện tư lợi, tham ô, hủ hóa...[5]. Kết quả chỉnh huấn đã củng cố hơn nữa lập trường chiến đấu,
quan điểm quần chúng, thấy rõ chỗ yếu và mâu thuẫn của địch; nắm vững đường lối
chính sách, vận dụng phương thức phương châm thích hợp hơn; uốn nắn được một số
khuyết điểm trước, qua đó vượt qua được mâu thuẫn khó khăn để bám vững địa bàn,
bám trong quần chúng ở cả 3 vùng[4, tr.23]. Các cuộc vận động, chỉnh huấn có ý nghĩa rất lớn trong việc nêu cao tinh thần, trách nhiệm của đảng
viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần làm chuyển biến về mặt
tư tưởng của nhân dân, củng cố niềm tin, tạo sự hứng khởi và quyết tâm hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đất nước được thống nhất, non sông thu về một mối.
2. Phát huy vai trò của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn hiện
nay
Hiện nay, các thế lực thù địch liên tục lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để thực hiện các hoạt động chống phá gây mất ổn
định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Xuất phát từ thực tiễn đó, để
tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, yêu cầu đặt ra cho mỗi cán bộ,
đảng viên cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ:
Một là, cán
bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cần phải nêu gương, bởi “một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[6, tr.284]. Chức vụ càng cao, trách nhiệm
nêu gương phải càng lớn. Nêu gương là trách nhiệm, bổn phận, đạo lý của mỗi
người đảng viên như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ
rõ: Cần đặc biệt chú trọng tiếp tục đề cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; người có chức vụ
càng cao càng phải gương mẫu, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của
Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai
trái, xuyên tạc, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Thực hiện quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán
bộ, chống chạy chức, chạy quyền[7].
Để bảo vệ Đảng trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản
động, phần tử cơ hội chính trị, phần tử xấu. Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên
phải nhận thức rõ bổn phận, trách nhiệm trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Phải nhận thức rõ rằng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là
trách nhiệm của cấp ủy Đảng, của cơ quan tuyên giáo, mà là trách nhiệm của
chính mình. Phải biết rằng danh dự và uy tín của Đảng không hề tách rời danh
dự, uy tín của mỗi cán bộ, đảng viên và tất cả những ai đang phụng sự Đảng,
phụng sự chế độ. Do đó, phải tuyệt đối tránh thái độ thờ ơ, xem như vô can khi
bắt gặp những luận điệu xuyên tạc, đả kích nền tảng tư tưởng của Đảng.
Hai là, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn
giữ vững niềm tin khoa học vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi Chủ nghĩa Mác-Lênin như “cẩm nang thần kỳ”, “mặt trời
chói lọi” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường phát triển của đất
nước. Trong thời đại ngày nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là học thuyết khoa học và
cách mạng duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử mà không một học thuyết nào có
thể thay thế được. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải kiên định
với nền tảng tư tưởng của Đảng, phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát
triển Chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập lý luận, rèn luyện,
nâng cao lập trường tư tưởng, nắm vững cương lĩnh, đường lối, quan điểm của
Đảng. Đây là yêu cầu cần thiết để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của mỗi cán bộ,
đảng viên trước những tác động và ảnh hưởng xấu từ bên ngoài. Đảng vững vàng
vượt qua thử thách chỉ khi Đảng có một đội ngũ cán bộ, đảng viên được giáo dục,
rèn luyện tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Thực tế những năm vừa qua cho
thấy, sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do những cán
bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững
vàng, hoang mang dao động trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Vì vậy,
cùng với sự giáo dục nghiêm túc của tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên tự tu dưỡng,
rèn luyện cả về phẩm chất đạo đức, cả về tư tưởng lý luận, nắm vững quan điểm,
đường lối của Đảng; xây dựng ý thức kỷ luật, luôn có ý thức gắn bó chặt chẽ với
quần chúng, lắng nghe và tôn trọng ý kiến đóng góp của tập thể và quần chúng;
thường xuyên kiểm điểm, rút kinh nghiệm, tự mình đấu tranh với chính mình trước
mọi cám dỗ của tiêu cực xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Chỉ có như
vậy mới có thể bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bốn là, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng
viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải xuất phát từ những hành động
cụ thể gắn với công việc, cuộc sống hàng ngày; phải thực sự bản lĩnh về chính
trị, tư tưởng, giữ nghiêm kỷ luật của tổ chức và gương mẫu về lối sống, không
xa hoa, không lãng phí, không gây mất đoàn kết nội bộ, đồng thời cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu cần nhạy bén với thời cuộc, kịp thời nắm bắt tình
hình, các tư tưởng phi mácxít du nhập vào Việt Nam tác động tiêu cực tới tư
tưởng của đảng viên, nhân dân để đấu tranh, phản bác. Tiêu biểu cho cuộc đấu
tranh này là bài viết của đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương về “Chủ nghĩa dân túy và những cảnh báo đối với Việt Nam”
tập trung chỉ rõ, phê phán những biểu hiện nguy hiểm, nguy cơ của
chủ nghĩa dân túy, đưa ra các giải pháp đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn chủ
nghĩa dân túy ở Việt Nam. Trên tinh thần chung của Đảng, người đứng đầu cấp ủy
và cán bộ, đảng viên phải là trung tâm của trí tuệ, hạt nhân của sự đoàn kết,
thống nhất ở địa phương, trong cơ quan công tác, phải luôn tỉnh táo phòng ngừa,
chủ động đấu tranh phê phán mọi nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù
địch. Cán bộ, đảng viên khi tham gia mạng xã hội vừa là một thành viên, vừa
phải thực hiện được vai trò nêu gương của mình. Phải cẩn trọng khi tham khảo,
sử dụng thông tin đăng tải trên mạng xã hội; những thông tin thiếu kiểm chứng
về nguồn gốc. Phải hành động một cách lý trí khi đăng tải bài viết, like hoặc
chia sẻ các liên kết và khi tham gia những cuộc thảo luận về các chủ đề trên
mạng xã hội. Phải nâng cao ý thức cảnh giác với những thông tin xấu, độc và
những biểu hiện tiêu cực, tăng cường đăng tải những thông tin chính thống, lan
tỏa những thông điệp tốt đẹp mỗi ngày, đồng thời phản biện lại những thông tin
sai trái, phiến diện của các thế lực thù địch trên không gian mạng.
Kết luận
Trong bối cảnh khó khăn,
gian khổ của những năm tháng chiến tranh, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã phát huy
bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập sáng
tạo, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện “tả khuynh”, “hữu khuynh”, những ảnh
hưởng của chủ nghĩa cơ hội, cải lương, những biểu hiện dao động về lập trường,
quan điểm tư tưởng, thỏa hiệp vô nguyên tắc; tạo được sự thống nhất về quan điểm
giai cấp, lập trường tư tưởng chính trị, về đường lối cách mạng, sự đoàn kết,
thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong Đảng. Tinh thần ấy tiếp tục
được phát huy trong giai đoạn hiện nay nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng
của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2002), Văn kiện
Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2002), Văn kiện
Đảng Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng
sản Việt Nam
(2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 24, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[4] Khu ủy
miền Đông Nam
bộ (1966), Tổng
kết tình hình miền Đông năm 1965, ngày 1-2, Hồ sơ số 250, Lưu tại Phòng Lý luận chính trị -
Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
[5] Khu ủy miền Đông Nam bộ (1974),
Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Khu ủy miền Đông mở rộng
(từ 22 đến 28-6-1974), hồ sơ số 392, Lưu tại Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,
tập 1,
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[7] Nguyễn Phú
Trọng (2020), Bài phát biểu tại Đại hội
đại biểu Đảng bộ Hà Nội lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, phiên khai mạc, ngày 12-10-2020.