Thứ Tư, ngày 15/03/2023, 16:15

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

CHU THỊ LÊ ANH
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Hội nghị trực tuyến "Thủ tướng chính phủ với cộng đồng doanh nghieeoj và các địa phương về các giải pháp tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh dịch Covid - 19" _Nguồn ảnh: https://htpldn.moj.gov.vn/

Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng tới nền kinh tế của các quốc gia, trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn.

Về phía tổng cầu, đại dịch COVID-19 gây ra cú sốc làm thay đổi tỷ trọng chi tiêu của doanh nghiệp, hộ gia đình đối với các hàng hóa khác nhau (giữa các ngành và theo thời gian) ở mức giá và thu nhập nhất định. Tổng hòa sự suy giảm trong cả tiêu dùng của các chủ thể kinh tế, sự đình trệ trong đầu tư mở rộng sản xuất và suy giảm về cầu nhập khẩu đã làm suy giảm tổng cầu của nền kinh tế từ đó làm giảm sản lượng sản xuất.

Về phía tổng cung, đại dịch COVID-19 gây ra các cú sốc làm thay đổi khả năng sản xuất của nền kinh tế. Những thay đổi này đến dưới dạng suy giảm các yếu tố đầu vào, đặc biệt là lao động và/hoặc giảm năng suất của các nhà sản xuất khác nhau do phải tạm dừng sản xuất để phòng, chống dịch hoặc do phải thay đổi cách thức hoạt động từ trực tiếp sang gián tiếp của các công ty, đồng thời kéo theo tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng trên quy mô toàn cầu.

Đại dịch COVID-19 là một cú sốc kinh tế vĩ mô bất thường. Trên thực tế, nó không thể dễ dàng được phân loại là một cú sốc tổng cung hoặc tổng cầu như trong lý thuyết.

Ảnh hưởng của COVID-19 lên các nhóm ngành khác nhau là không giống nhau. Và cũng với góc nhìn về sự không đồng đều này, đại dịch COVID-19 được đánh giá là không đơn thuần chỉ là một cú sốc về tổng cầu hay tổng cung mà là bao hàm lẫn lộn của cả hai[1]. Trong đó, cú sốc về cung mang bản chất đình lạm, còn cú sốc về cầu mang bản chất của giảm phát.

Kết quả tăng trưởng của nền kinh tế sẽ suy giảm là hệ quả trực tiếp trong ngắn hạn. Trong dài hạn, năng lực sản xuất của nền kinh tế cũng có nguy cơ bị giảm sút do ảnh hưởng tới nguồn lực lao động. Chính vì vậy, từ phía Nhà nước với vai trò quản lý và điều tiết thị trường, cần có những chính sách hỗ trợ, kích thích phục hồi ở cả phía cung và phía cầu của nền kinh tế để ứng phó với những tác động tiêu cực và thích ứng với dịch bệnh trong thời gian tới.

1. Chính sách nhằm ứng phó với tác động của đại dịch COVID-19 tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua

Nền kinh tế Việt Nam cũng như nhiều nền kinh tế khác trên thế giới đã và đang chịu những tác động tiêu cực của cú sốc ngoại sinh đại dịch COVID-19 trên cả 2 mặt tổng cung và tổng cầu. Để hỗ trợ nền kinh tế trước các tác động tiêu cực của đại dịch, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện các gói hỗ trợ ngay từ đợt bùng phát dịch đầu tiên.

Hàng loạt văn bản đã được ban hành liên tiếp, gối đầu để kịp thời tiếp sức cho các đối tượng bị ảnh hưởng: Quốc hội ban hành Nghị quyết số 116/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác. Chính phủ ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020, Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; Nghị quyết số 84/NQ-CP 29/5/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành nhiều quyết định như Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 13/12/2020, Quyết định số 32/2020/QĐ-TTg ngày 14/12/2020 về thực hiện chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.

Sang năm 2021, đại dịch vẫn diễn biến phức tạp, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 về gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất trong năm 2021, Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; Quyết định 23/2021/QĐ-TTg ngày 7/7/2021 quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh đại dịch COVID-19... Để thực sự đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội cho cả giai đoạn 2021- 2025 và các năm tiếp theo, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động, sức cạnh tranh, trong trung và dài hạn, ngày 30/1/2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Tổng quy mô hỗ trợ lên tới gần 350.000 tỷ đồng, chia thành 4 nhóm giải pháp, trong đó, quy mô của các giải pháp thuộc nhóm chính sách tài khóa lên tới 237.650 tỷ đồng, chiếm 68,53%, các giải pháp thuộc chính sách tiền tệ là 46.000 tỷ đồng, tương đương 13,26%, các giải pháp thuộc nhóm chính sách an sinh xã hội là 53.150 tỷ đồng, tương ứng 15,55%, và cuối cùng là các giải pháp khác là 10.000 tỷ đồng, tương ứng 2,88% tổng giá trị của chương trình. Chương trình thực hiện 5 nhiệm vụ cũng là giải quyết 5 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là: (1) mở cửa nền kinh tế gắn với nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh; (2) bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm, khôi phục thị trường lao động; (3) hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; (4) tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; (5) cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Các chính sách nêu trên nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, không để lỡ nhịp đà phục hồi của kinh tế thế giới cũng như ổn định kinh tế trong trung và dài hạn. Toàn bộ Chương trình thực hiện trong 2 năm (2022-2023).

2. Kết quả thực hiện các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua

Các chính sách trên đây, đặc biệt là Chương trình phục hồi kinh tế sau đại dịch với tổng giá trị dự kiến là 350 nghìn tỷ đồng được kỳ vọng sẽ giúp doanh nghiệp phục hồi phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từ đó quay trở lại có đóng góp vào ngân sách.

Sự phối hợp đồng bộ của các chính sách nêu trên nhìn chung đã đem đến các kết quả khả quan. Các chính sách được ban hành cơ bản phù hợp với diễn biến và tác động của đại dịch COVID-19, được cập nhật theo diễn biến của dịch bệnh cũng như tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Quy mô gói hỗ trợ đã được mở rộng hơn so với năm 2020 và 2021, theo dự kiến quy mô gói hỗ trợ năm 2022 là 4,05% GDP.

Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 2/9/2022, giải ngân các chính sách hỗ trợ thuộc Chương trình sơ bộ đạt 55,5 nghìn tỷ đồng, trong đó: (i) Các chương trình cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 10.073 tỷ đồng; (ii) Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đạt 3.045 tỷ đồng cho gần 4,54 triệu lao động; (iii) Giảm thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường đối với nhiên liệu bay, xăng đến ngày 26/8/2022 là 34.970 tỷ đồng; (iv) Chi phí cơ hội hỗ trợ thông qua gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất đến hết tháng 6/2022 là 7.400 tỷ đồng. Ngoài ra, gia hạn các loại thuế, tiền thuê đất là 52.000 tỷ đồng[3]. Tính đến ngày 22/7/2022, gói hỗ trợ người lao động theo Nghị quyết số 11/NQ-CP đã giải ngân khoảng 196,7 tỷ đồng, hỗ trợ cho gần 340 nghìn người lao động đang làm việc trong 3,3 nghìn đơn vị sử dụng lao động; hỗ trợ 5,1 tỷ đồng cho gần 5000 người lao động quay trở lại làm việc tại khoảng 600 doanh nghiệp.

Kết quả tăng trưởng trong quý III/2022 cho thấy, các chính sách đang đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả. GDP 9 tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong giai đoạn 2011-2022, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần lấy lại đà tăng trưởng. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế 9 tháng năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,99% (đóng góp 4,04%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,44% (đóng góp 41,79%), trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 10,69%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2011, 2017 và 2018; khu vực dịch vụ tăng 10,57% (đóng góp 54,17%)[5]. Thị trường lao động dần phục hồi tích cực, trong 9 tháng đầu năm 2022, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 9 tháng năm 2022 ước đạt 68,5%, tăng 0,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 9 tháng năm 2022 là 2,35% (quý III/2022 ước tính là 2,28%), trong đó khu vực thành thị là 2,88%; khu vực nông thôn là 2,02%[5]. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, kinh tế Việt Nam được dự báo có thể tăng trưởng 7,5% trong năm 2022, tăng mạnh so với 2,6% năm 2021. Lạm phát vẫn được kiểm soát tốt: CPI tính chung 8 tháng năm 2022 tăng 2,58%, tương đương cùng kỳ các năm 2018-2021. Thị trường ngoại tệ, tỷ giá hối đoái được giữ ổn định (biến động trong phạm vi cho phép với biên độ +/- 2%)[3].

Nhìn chung, các chính sách, giải pháp đã rất chủ động, linh hoạt và kịp thời giúp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì một mặt bằng tỉ giá, lãi suất hợp lý, cơ bản ổn định so với các nước lớn và trong khu vực đang chịu nhiều biến động, qua đó giúp xu hướng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng được củng cố và phát triển tích cực.

Tuy nhiên, hiệu quả của chính sách chưa thật sự kích thích được nền kinh tế, nguyên nhân được cho là bởi một số nội dung sau:

Một là, quy mô hỗ trợ còn khiêm tốn. Quy mô gói hỗ trợ kinh tế của Việt Nam đã tăng lên tương đối lớn năm 2022 (bằng 4,05% GDP dự kiến). Tuy nhiên, tổng quy mô gói hỗ trợ tài khóa - tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua thấp hơn mức trung bình toàn thế giới khoảng 16% GDP, các nước NIC khoảng 7,5% GDP và các nước thu nhập thấp khoảng 4,28% GDP. Mức hỗ trợ như vậy đem đến rủi ro là không đủ để tạo được “cú hích” đáng kể cho nền kinh tế bởi tính chất giảm phát xuất hiện ở cả phía cung và cầu của nền kinh tế do tác động của đại dịch.

Hai là, thời gian và nội dung hỗ trợ còn một số bất cập. Một số quy định về phí, giá được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật nên mất nhiều thời gian để điều chỉnh giảm giá, phí hỗ trợ doanh nghiệp[4]. Điều này kéo dài độ trễ trong và độ trễ ngoài của các chính sách hỗ trợ, khiến tính chất kịp thời của chính sách bị giảm. Bên cạnh đó, một số chính sách giảm thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế có tỷ lệ giải ngân thấp hơn dự kiến do nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh bị ảnh hưởng mạnh bởi đại dịch, phải tạm ngừng sản xuất, kinh doanh hoặc không có lợi nhuận để nộp thuế nên không được hưởng lợi từ các chính sách trên. Nói cách khác, nội dung hỗ trợ không thực sự đáp ứng nhu cầu được hỗ trợ và hoàn cảnh thực tiễn.

Ba là, nhiều khó khăn tích tụ đến nay đã vượt sức chịu đựng của doanh nghiệp mà trở thành vấn đề của ngành, lĩnh vực[3]. Còn thiếu những chính sách tập trung cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể có quy mô lớn, có tính chất dài hạn theo hướng phục hồi hơn là giải cứu ngắn hạn.

Bốn là, chương trình hỗ trợ và phục hồi kinh tế - xã hội theo Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội được thiết kế trước khi có những biến động lớn về tình hình kinh tế, chính trị thế giới như xung đột Nga - Ukraina, tình hình lạm phát toàn cầu... Sau các biến động lớn trên, chính sách của các nước lớn đã có sự điều chỉnh và ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế thế giới đặc biệt là vấn đề lạm phát. Do vậy, cần phải có những điều chỉnh trước những biến động của bối cảnh mới.

2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế trong thời gian tới

Cho đến hết quý I/2022, nền kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá là "nền kinh tế phát triển nhanh nhất Đông Nam Á". Ảnh minh hoạ (Nguồn: hanoimoi.com.vn) 

Để hỗ trợ nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian tới, bài viết khuyến nghị một số kiến nghị sau:

Một là, mở rộng quy mô các gói hỗ trợ tài khóa nhưng thận trọng để tránh gây rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô. Tính toán của nhiều nghiên cứu cho thấy, Việt Nam được đánh giá có năng lực quản trị nợ ở mức trung bình khá và các chỉ tiêu về an toàn nợ công của Việt Nam vẫn còn khá tốt nên còn dư địa tài khóa cho việc thực hiện các chính sách hỗ trợ trong giai đoạn 2022- 2025. Ngân hàng Thế giới dự báo, đại dịch COVID-19 sẽ làm tăng tỷ lệ nghèo đói ở các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Vì vậy, chính sách tài khóa dành cho xóa đói giảm nghèo và phục hồi sau đại dịch COVID- 19 cũng cần được chú ý đặc biệt. Đồng thời, cần điều chỉnh quy mô và cơ cấu chi trong ngân sách nhà nước. Và cần xem xét điều chỉnh các gói hỗ trợ không còn phù hợp với bối cảnh mới. Nguyên tắc chung của việc thực hiện chính sách tài khóa nên là đơn giản về quy trình, dễ xác định đối tượng hưởng lợi và không tạo ra kẽ hở cho trục lợi chính sách.Trong giai đoạn hiện nay có thể chấp nhận bội chi cao và vay nợ nhiều hơn trong ngắn hạn là để có không gian tài khóa tốt hơn.

Hai là, cần nhanh chóng khắc phục các bất cập trong các quy định pháp lý, tiếp tục cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các gói hỗ trợ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa; những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng như xuất khẩu, du lịch, nông nghiệp, tài chính, logistics, bất động sản...

Ba là, cần có các chính sách khuyến khích phát triển các ngành kinh tế; đẩy nhanh việc hoàn thiện các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, của địa phương; tăng cường liên kết vùng để tạo ra sự đồng bộ, thông suốt và động lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của địa phương là cơ sở để phát triển cả nước.

Bốn là, cần bám sát tình hình biến động kinh tế thế giới, đặc biệt là nguy cơ nhập khẩu lạm phát để có những điều chỉnh chính sách kịp thời. Muốn thực hiện tốt điều này, không thể không nhắc tới việc xây dựng và hoàn thiện, đồng bộ cơ sở dữ liệu thông tin kinh tế xã hội. Có được hệ thống dữ liệu đầy đủ sẽ là cơ sở để có được những phân tích và dự báo đúng và chuẩn xác nhất cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý.

Năm là, cần có những chính sách tập trung hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực bởi con người là chủ thể và cũng là động lực chính cho nền kinh tế phục hồi và phát triển trong dài hạn. Cần có quy hoạch phát triển các trường đại học, các trường dạy nghề, đưa công nghệ cao vào các trường dạy nghề nhằm nhanh chóng tạo ra một lực lượng lao động có trình độ cao, có kỹ năng mới, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số nền kinh tế, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong tương lai.

Kết luận

Đại dịch COVID-19 đã đem đến cho nền kinh tế Việt Nam và thế giới một cuộc thử thách sức chống chịu của nền kinh tế và năng lực điều hành của chính phủ các quốc gia. Có thể khẳng định, các chính sách được Chính phủ Việt Nam đưa ra nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ đầu đại dịch cho tới nay đã bám sát thực tiễn, dựa trên cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý và luận cứ khoa học. Nhưng để các chính sách thực sự là “cú hích” đối với nền kinh tế, để có thể hoàn thành tốt các mục tiêu giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn 2030 cần có sự đồng lòng và quyết tâm của Nhà nước và doanh nghiệp, Trung ương và địa phương.

 Tài liệu tham khảo:

[1] Baqaee, D. & Farhi, E. (2022), Supply and Demand in Disaggregated Keynesian Economies with an Application to the COVID-19 Crisis, Journal of Economic Perspective, Volume 36(2).

[2] Guerrieri, V., Lorenzoni, G., Straub, L. & Werning, I. (2022), Macroeconomic Implications of COVID- 19: Can Negative Supply Shocks Cause Demand Shortages?, American Economic Review, Volume 112(5).

[3] Nguyễn Trúc Lê, (2022), Triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội – Thực trạng và một số giải pháp trong thời gian tới, Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế - xã hội Việt Nam 2022, Hà Nội.

[4] Quốc hội (2022), Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội

[5] Tổng cục Thống kê (2022), Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội các quý năm 2021, 2022, https://www.gso.gov.vn


Đọc thêm

Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta

Tác giả: TS. Bùi Hồng Thanh

(LLCTTTĐT) Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao mức sống cho người dân và được cụ thể bằng quan điểm Đảng và Nhà nước ta phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào được lý giải trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Khơi thông mọi nguồn lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Tác giả: PGS. TS. Đào Duy Quát

(TG) - Chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở”, đồng thời “huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”.

Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền

Tác giả: TSKH. Đặng Huy Trinh

(TG) - Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới

Tác giả: PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa - TS Nguyễn Văn Dương

(LLCT) - Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng xây dựng, vun đắp. Bài viết khái quát mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo phương châm “hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện”, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hai nước đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là nền tảng xây dựng đạo đức công vụ

Tác giả: Bảo Châu

(TG) - Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng đối với việc củng cố uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần tạo động lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên làm nền tảng xây dựng đạo đức công vụ là yêu cầu, nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.