CẦN CÓ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ PHÒNG NGỪA ĐỂ HẠN CHẾ SAI LẦM,
KHUYẾT ĐIỂM
Khuyết điểm của cán bộ, đảng viên là điều không thể tránh
khỏi. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đều sinh ra và phát triển từ trong lòng xã
hội, chịu sự tác động của cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, tốt và xấu,
tiến bộ và lạc hậu. Hồ Chí Minh khẳng định: “Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng
ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về
tư tưởng, về thói quen...”(1). Mặt khác, mỗi
con người hay mỗi tổ chức không phải lúc nào cũng đi trên con đường thẳng tắp
mà thường phải vượt qua những khúc quanh, những khó khăn, phức tạp. Trong quá
trình ấy, hoạt động của con người và tổ chức không thể tránh khỏi sai lầm,
khuyết điểm ở những mức độ khác nhau. Hồ Chí Minh thường hay nhắc lại câu nói
của Lênin: Chỉ có hai hạng người không mắc khuyết điểm là đứa bé còn ở trong
bụng mẹ và người chết đã bỏ vào quan tài.
Đối
với những sai lầm, khuyết điểm của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng
ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có
nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không
tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên
ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Đặc biệt với những cán bộ, đảng viên thiếu
bản lĩnh trước những khó khăn, thử thách cũng như những cám dỗ về tiền tài,
danh lợi càng dễ mắc sai lầm, khuyết điểm.
Thái
độ đối với sai lầm, khuyết điểm của các đối tượng khác nhau được Hồ Chí Minh
chỉ ra cụ thể. Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết điểm để tô vẽ thêm nhằm
phá hoại Đảng; bọn đầu cơ sẽ lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm để đạt mục
đích tự tư tự lợi; những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt sẽ có thái độ “mặc
kệ, sao xong chuyện thì thôi”, không phê bình, không tự phê bình; những người
máy móc, chủ quan thì đòi phải đuổi những người mắc sai lầm, khuyết điểm ra
khỏi Đảng. Thái độ đúng đắn, khách quan, khoa học của Đảng trước những sai lầm,
khuyết điểm đó là “có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó,
vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm
kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó”(2).
Tuy
nhiên, Đảng cần phải có biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa tốt nhất để hạn chế
những sai lầm, khuyết điểm hoặc tránh những sai lầm, khuyết điểm trở nên trầm
trọng thông qua một trong những phương thức quan trọng đó là kiểm tra, giám
sát.
Đối
với tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định, kiểm tra, giám sát để biết rõ cán bộ
và nhân viên tốt hay xấu, biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của các cơ quan, ban
ngành... giúp ta biết được “ở cấp dưới, ở cơ sở, có những nơi cán bộ phụ trách
không tốt, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, làm những điều xấu xa”(3). Nhờ đó, không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa sai lầm, khuyết điểm mà còn
giúp đỡ họ kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm ấy.
Đối
với mỗi cán bộ, đảng viên, kiểm tra, giám sát “có tác dụng thúc đẩy và giáo dục
đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương
mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về
tổ chức"(4). Mặt khác, kiểm tra, giám
sát cũng giống như một "tấm gương soi" đối với mỗi người để họ tự
nhìn nhận về những lời nói và việc làm, tự nhận thức về những ưu điểm và khuyết
điểm, từ đó tự giác phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm để luôn phát triển,
tiến bộ, hoàn thành nhiệm vụ được phân công, làm tấm gương sáng cho quần chúng
noi theo
Hồ
Chí Minh phê phán một cách nghiêm khắc sai lầm rất lớn trong lãnh đạo đó là một
số cấp ủy còn lơ là, chưa quan tâm đúng mức tới công tác kiểm tra, giám sát,
làm việc nhưng “quên kiểm tra”. Cán bộ mắc bệnh quan liêu, bàn giấy, chỉ lo
khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện, gửi chỉ thị và kết quả là họ không biết
gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại
gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không... Vì thế mà “đầy túi quần thông
cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy.
Thấm
nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo, Đảng luôn khẳng định,
kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo, là một bộ phận trong toàn bộ công tác
xây dựng Đảng. Những năm vừa qua, Đảng đã có nhiều nỗ lực trong việc bổ sung,
phát triển, hoàn thiện các quan điểm, nguyên tắc và phương pháp của công tác
này. Nhờ vậy, công tác kiểm tra, giám sát được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng,
góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, tăng cường kỷ
cương, kỷ luật, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội
XIII của Đảng khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng
cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp
được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là ở cấp Trung ương. Qua công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được siết
chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”(5).
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tích, kết quả đã đạt được, trong kiểm tra, giám sát
vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, hạn chế cần sớm được khắc phục nhằm đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ:
“Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường
xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm…; còn nhiều
tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời”(6).
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG
Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy vai trò của kiểm tra, giám sát trong xây
dựng Đảng hiện nay, chúng ta cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, ý thức thường xuyên tự kiểm tra, giám
sát của cán bộ, đảng viên.
Hồ
Chí Minh quan niệm, mỗi đảng viên do sự “tự giác” và “lòng hăng say” của mình
mà vào Đảng, mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sĩ tiên phong. Mỗi cán bộ,
đảng viên phải xứng đáng là một trong những người đại biểu cho dân tộc. Thực
hiện chuẩn mực “chặt chẽ và nghiêm khắc” trong quan hệ với chính mình, Người
yêu cầu, phận sự của đảng viên và cán bộ là “cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự
kiểm điểm mình và đồng chí mình”(7). Thường
xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống, đồng thời phải
nêu cao nhận thức và có ý thức tự kiểm điểm những lời nói, những việc làm,
thường xuyên xem xét, đánh giá những điều hay - dở, đúng – sai, tốt – xấu để
phát triển điều hay, sửa chữa khuyết điểm, đồng thời phải hoan nghênh cấp dưới
và nhân dân phê bình, chống bệnh hữu danh, vô thực, bệnh hình thực. Hồ Chí Minh
chỉ rõ, sau mỗi công việc, cần tự mình kiểm điểm, rút kinh nghiệm, tìm ra ưu
điểm để phát huy, nhân rộng; đồng thời chỉ rõ khuyết điểm, nguyên nhân để sửa
chữa, khắc phục kịp thời, không để sai lầm từ một người thành sai lầm của nhiều
người, sai lầm của một tổ chức thành của nhiều tổ chức.
Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng nằm
giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, do đó nguy cơ suy thoái, mắc
phải những sai lầm, khuyết điểm là nguy cơ thường trực. Nhất là trong điều kiện
hoà bình, cán bộ, đảng viên ai cũng mong muốn chăm lo cho đời sống vật chất,
tinh thần của bản thân và gia đình. Đó là nhu cầu chính đáng. Tuy nhiên, nếu
nhu cầu chăm lo cho bản thân và gia đình vượt qua những quy định cho phép của
người đảng viên, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
những chuẩn mực của cộng đồng thì nhu cầu đó là sự ích kỷ, hẹp hòi, vụ lợi. Do
đó, mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải tự giác, thường xuyên kiểm tra, giám
sát chính mình, trong đó người đứng đầu tổ chức phải gương mẫu, thống nhất cao
về ý chí và hành động trong thực hiện kiểm tra, giám sát của Đảng và tự kiểm
tra, giám sát chính mình.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong kiểm
tra, giám sát.
Tiếp
tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong nhận thức và quyết tâm chính trị
của cấp uỷ tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên các cấp về kiểm tra, giám sát của
Đảng. Cần phải thay đổi nhận thức chưa đúng đối với nhiều người hiện nay khi
cho rằng kiểm tra, giám sát mang ý nghĩa tiêu cực, là sự kiềm chế, thúc ép,
định ranh giới, theo dõi hoặc lôi kéo dẫn đến những cuộc tranh luận không đáng
có hoặc những tổ chức và cá nhân bị kiểm tra, giám sát là những tổ chức, cá
nhân “có vấn đề”.
Cần
tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, Điều lệ Đảng, giữ
nghiêm kỷ luật Đảng góp phần phát hiện và khắc phục những khuyết điểm ngay từ
khi mới manh nha. Tăng cường kiểm tra, giám sát về bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ chấp hành đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chấp hành Điều lệ Đảng và các chủ
trương, chính sách. Trong kiểm tra cần chú ý lắng nghe dư luận quần chúng; tiếp
nhận ý kiến của Mặt trận, đoàn thể nhân dân nhận xét phê bình cán bộ, đảng viên
theo định kỳ hoặc đột xuất. Cần coi trọng phát hiện các nhân tố tích cực, việc
làm tốt, điển hình tốt giúp cho cấp uỷ tổng kết, rút ra những kinh nghiệm hay,
những cán bộ đảng viên tiêu biểu... để bồi dưỡng và nhân rộng.
Cùng
với kiểm tra, giám sát là giữ vững kỷ luật Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định, kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác nghĩa là mọi cán bộ, đảng viên tự
giác thực hiện nhiệm vụ được giao, đề cao trách nhiệm trước Đảng và nhân dân,
làm chủ bản thân, không làm điều gì khuất tất. Kỷ luật của Đảng cũng là kỷ luật
sắt, nghĩa là rất nghiêm khắc, nghiêm minh. Chỉ có như vậy Đảng mới có sức mạnh
và mỗi cán bộ, đảng viên mới tránh được sai phạm. Kỷ luật của Đảng có ý nghĩa
răn đe, cảnh tỉnh, cảnh báo đồng thời hướng những người sai phạm có thể sửa
chữa để tiến bộ. Trong điều kiện đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, kỷ luật của Đảng gắn liền với pháp luật Nhà nước. Các cán bộ,
đảng viên sai phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự phải được xử lý
nghiêm minh, không có ngoại lệ và bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba, tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước.
Hệ
thống pháp luật thực sự là phương tiện hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; phục vụ cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật bảo đảm tính thống nhất, rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch và
dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính khả thi cao. Các đạo luật phải giữ vị trí tối
thượng và là hình thức chủ yếu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quy
định các vấn đề cơ bản, quan trọng của đời sống xã hội, quyền, nghĩa vụ của
công dân.
Trong
bất kỳ trường hợp nào, mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và
bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Thậm chí, những đảng viên giữ vị trí
càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu thực thi pháp luật và nếu mắc
sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc. Pháp luật bảo vệ Đảng, bảo vệ
những cán bộ, đảng viên chân chính, đồng thời nghiêm trị những phần tử đi ngược
lại tôn chỉ, mục đích của Đảng. Hồ Chí Minh viết: “Pháp luật phải thẳng tay
trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(8).
Thanh
tra là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu trong hệ thống các giải pháp
nhằm ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật,
phát hiện những thiếu sót trong cơ chế quản lý, chính sách pháp luật, từ đó
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp để khắc phục. Thanh
tra Nhà nước xem xét, đánh giá, xử lý các cơ quan Nhà nước đối với việc thực
hiện chính sách pháp luật; nhiệm vụ của cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự quản
lý theo thẩm quyền.
Tập
trung chỉ đạo công tác thanh tra thực hiện tốt công tác tiếp dân; giải quyết
khiếu nại đông người; giải quyết các vụ việc tồn đọng, bức xúc kéo dài. Tăng
cường kiểm tra, đôn đốc công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cấp, các
ngành; tăng cường công tác thanh tra trách nhiệm thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, tăng cường
việc củng cố, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân; xử lý đơn thư và
giải quyết khiếu nại, tố cáo…
Thứ tư, phát huy vai trò của nhân dân
Theo
Hồ Chí Minh, đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng. Tức là, hết
sức phụng sự nhân dân, tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, học hỏi nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân và không một phút nào xa rời nhân dân, cùng nhân
dân kết thành một khối. Như vậy thì nhất định được nhân dân ủng hộ và việc gì
to mấy, khó mấy làm cũng nên.
Nói
về vai trò của nhân dân trước những sai lầm, khuyết điểm của đảng viên, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng,
làm cho quần chúng khinh ghét tội tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức,
hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha
soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn
nấp”(9). Nói về việc thực hiện chữ Liêm của
cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng, “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu
biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hoá ra LIÊM. Vì
vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán
bộ thực hiện chữ LIÊM”(10). Vì vậy, phải làm
cho nhân dân nhận thức được về vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của mình
trong việc giám sát các tổ chức Đảng và đảng viên, tích cực tham gia xây dựng
Đảng, tránh thái độ thờ ơ, lảng tránh hoặc qua quýt.
Dân
chủ thể hiện quyền và nghĩa vụ của người dân (nhân dân là chủ và nhân dân làm
chủ). Quyền và nghĩa vụ đó được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nhưng để
quyền đó được thực thi trong thực tế, để người dân có thể thực hiện quyền đó
một cách thường xuyên, cần có những quy định rõ ràng, cụ thể, có cơ chế thực
hiện. Thông qua nhiều hình thức khác nhau, nhân dân thực hiện quyền giám sát
của mình. Chẳng hạn thông qua Ban Thanh tra nhân dân (Ban Thanh tra nhân dân
được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước) nhân dân giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của
cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà
nước đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước…
Quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát đồng thời xuất phát
từ những yêu cầu, đòi hỏi trong thực tiễn để đưa ra những giải pháp hiệu quả
trong kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, đưa sự nghiệp đổi mới của chúng ta đi đến thắng
lợi hoàn toàn.
(Nguồn:
tuyengiao.vn)
Tài
liệu tham khảo:
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.11, tr. 601 – 602.
(2) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.362, 362.
(3)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.224.
(5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. II, tr. 197 – 198,
201.
(7)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.305.
(8) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127, 127.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13,
tr.419.