Chủ nhật, ngày 30/04/2023, 17:50

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.

Lục Ngạn là huyện nằm về phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Giang, với tổng diện tích tự nhiên là 1.032,53 km2, dân số khoảng 23 vạn người, là huyện miền núi, gồm 12 xã vùng cao và 116 thôn đặc biệt khó khăn. Huyện Lục Ngạn có gần 80% dân số làm nông nghiệp, với 8 dân tộc anh em cùng sinh sống chiếm trên 49% dân số của Huyện[8]. Với gần 80% dân số làm nông nghiệp, ngành nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của Huyện. Trong công cuộc đổi mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp của huyện Lục Ngạn, các tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) các cấp có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển bền vững kinh tế, nông nghiệp, tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của tình hình KT-XH và những rủi ro, bất thường của tự nhiên - xã hội.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan thăm vùng chuyên canh vải thiều Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang) _Nguồn: danviet.vn

1. Một số vấn đề chung

Tái cơ cấu ngành nông nghiệp thuộc tái cơ cấu tổng thể của nền kinh tế quốc dân, nằm trong chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước gắn với bảo vệ môi trường và đảm bảo tính bền vững. Tái cơ cấu nông nghiệp là quá trình sắp xếp lại các yếu tố liên quan đến chuỗi giá trị từ quy hoạch, cơ sở hạ tầng, hình thức tổ chức sản xuất, chuỗi cung ứng dịch vụ sản xuất cũng như thu hoạch, thu mua, chế biến, bảo quản và tiêu thụ các mặt hàng, sản phẩm ngành nông nghiệp. Nói cách khác, tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một quá trình triển khai nhiều giải pháp chuyển đổi hình thức cơ cấu mùa vụ, cây trồng hay vật nuôi nhằm nâng cao giá trị sản xuất, từ đó tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của bà con nông dân, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Căn cứ vào mục tiêu chung đề ra trong Kế hoạch số 685/KH-UBND ngày 23/12/2021 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang về Cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021-2025:“Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái, bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế; xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, gắn với xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cho các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc trưng, sản phẩm tiềm năng (sản phẩm OCOP) có thế mạnh của tỉnh và của từng địa phương; đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong đó phát huy vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp, hợp tác xã. Nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng ở nông thôn, góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới”[7], Ủy ban nhân dân (UBND) Tỉnh, các cấp, các ban, ngành địa phương các huyện xã, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò các tổ chức hợp tác của nông dân trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phục vụ sản xuất nông nghiệp và tái cơ cấu ngành nông nghiệp của địa phương. Đến nay, sản xuất nông nghiệp của huyện Lục Ngạn đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ phương thức sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, gắn với việc hình thành, phát triển các thương hiệu sản phẩm và tăng cường chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

Các tổ chức hợp tác của nông dân là các hợp tác xã, các doanh nghiệp và đặc biệt là các tổ chức CT-XH trên địa bàn huyện Lục Ngạn bao gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh (CCB), Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên huyện Lục Ngạn đã phát huy năng lực, nguồn lực và vai trò của mình trong thúc đẩy, hỗ trợ và kết nối cùng với nông dân thực hiện các nhiệm vụ đáp ứng các mục tiêu của kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp và giảm nghèo bền vững.

2. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Một là, trong sản xuất ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, sản xuất theo quy trình VietGAP, GlobalGAP , nông nghiệp hữu cơ

Các tổ chức CT-XH trên địa bàn Huyện có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp hội viên, thành viên nhóm tham gia vào quá trình ứng dụng công nghệ cao và khoa học - kỹ thuật (KH-KT) trong sản xuất nông sản sạch, an toàn và bảo vệ môi trường đạt tiêu chuẩn quốc tế thông qua hoạt động tuyên truyền, tập huấn. Đặc biệt là đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng KH-KT, công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ thông tin trong toàn bộ các khâu của chuỗi giá trị.

Hội Nông dân là tổ chức CT-XH hoạt động tích cực nhất trong công tác tập huấn chuyển giao KH-KT cho nông dân trên địa bàn Huyện năm 2021 với 49,704 lượt người tăng gần gấp đôi so với so với năm 2019 là 25,706 lượt người[5]; Để sản xuất nông nghiệp của Huyện phát triển bền vững, toàn diện phù hợp với lợi thế của từng địa phương, Hội Nông dân các cấp tích cực tham gia các dự án, đề án của ngành nông nghiệp tại địa phương về tổ chức lớp chuyển giao KH-KT cho các hộ gia đình. Hội Phụ nữ Huyện tập trung khai thác chuyển giao công nghệ VietGap vào chăm sóc vải thiều cho các chị em phụ nữ nông dân.

Hội CCB áp dụng tiến bộ KH-KT, công nghệ mới vào sản xuất, chế biến bảo quản nông sản sau thu hoạch, tạo ra nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao... Các nhóm cũng liên kết, phối hợp với nhau trong chuyển giao công nghệ và tập huấn ứng dụng KH-KT.

Cùng với các hoạt động tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người dân, các tổ chức CT-XH đưa ra các cam kết thực hiện đã trở thành quy tắc nhóm, nguyên tắc để sản phẩm nhận được sự bảo trợ và đồng hành của chính quyền địa phương, đại diện các tổ chức CT-XH trong cấp phép và tiêu thụ sản phẩm.

Các cơ sở Hội Nông dân đã xây dựng được 19 mô hình bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu trong năm 2021 (vượt so với kế hoạch Hội đặt ra 13 mô hình)[5]. Hội Phụ nữ đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức, trách nhiệm của phụ nữ về bảo vệ môi trường; xây dựng mô hình “sản xuất thực phẩm sạch”, “tiêu dùng sạch” trong hội viên phụ nữ. Huyện đoàn chú trọng vào tổ chức các đội tuyên truyền bảo vệ môi trường và hướng dẫn áp dụng KH-KT và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp an toàn và BVMT cho các cơ sở, hội, nhóm.

Hai là, trong chuyển đổi và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản

Mặc dù tình hình dịch bệnh COVID-19 đã được kiểm soát trên địa bàn, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ: Giá vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi...) tăng cao, trong khi giá một số nông sản như rau, củ, quả, gia súc, gia cầm, cá các loại giảm, khó tiêu thụ.

Hội Nông dân, Hội Phụ nữ có vai trò vô cùng quan trọng hỗ trợ cung ứng giống cây trồng, vật nuôi để phát triển sản xuất; phối hợp với Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp, các đại lý, công ty cung ứng thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm cho các hội viên. Hoạt động cung ứng phân bón cho nông dân được thực hiện hiệu quả với định mức năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt là Hội Nông dân huyện phối hợp với Công ty Cổ phần Công nông nghiệp Tiến Nông cung ứng được 760 tấn phân bón trả chậm cho hội viên nông dân (đạt 345,45% kế hoạch năm 2019), đến năm 2021 là 2.032 tấn phân bón các loại (đạt 752,59% chỉ tiêu đề ra)[4],[5]. Ngoài ra Hội còn phối hợp với với các đại lý cung ứng phân bón các loại, phối hợp cơ quan chuyên môn cung ứng thóc giống, cùng một số cây, con giống mới cho hội viên nông dân kịp thời phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Các tổ chức CT-XH là đơn vị phối hợp hiệu quả với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội kết hợp với nguồn quỹ vốn của hội trong triển khai hỗ trợ vốn, quản lý việc phân bổ vốn cho các hội viên của mình. Hội CCB huy động mọi nguồn lực và tranh thủ sự giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương; các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với CCB. Từ năm 2017 đến năm 2021, Hội đã cho vay không tính lãi được 1.594 hộ với số tiền 4.826 triệu đồng, cho vay lãi suất thấp với 3.494 hộ với số tiền 18.567 triệu đồng[3]. Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Huyện đoàn là các tổ chức CT-XH đã phát huy vai trò nòng cốt trong hỗ trợ vốn cho nông dân. Tỷ lệ Ngân hàng NN&PTNT cho vay qua tổ do Hội Nông dân quản lý chiếm 33% tổng dư nợ; tỷ lệ lãi thực thu cho vay qua tổ đạt 90%[5]. Trong nhiệm kỳ 2017-2022, Huyện đoàn hỗ trợ 34 lượt đoàn viên thanh niên vay vốn khởi nghiệp hơn 3,3 tỷ đồng, thành lập mới và duy trì 53 tổ tiết kiệm vay vốn với tổng dư nợ uỷ thác đạt 87,128 tỷ đồng[2].

Ba là, trong thực hiện chính sách hỗ trợ liên kết và tổ chức sản xuất từ cung ứng dịch vụ đầu vào sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị

Liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất gắn với tăng cường áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, quy trình sản xuất. Nguồn ảnh https://bacgiang.gov.vn/

Hiện nay, sức cạnh tranh của nông sản Lục Ngạn, Bắc Giang trên thị trường tương đối cao, không chỉ thu hút thị trường trong nước mà còn cả thị trường châu Á và thị trường khó tính như châu Âu. Tuy nhiên, trong bối cảnh các loại dịch bệnh diễn biến phức tạp, đặc biệt là đại dịch COVID-19, từ Chính phủ đến các cấp địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Sự tham gia vào cuộc của các bộ, sở, ngành của Tỉnh và các tổ chức CT-XH đã tạo điều kiện giúp Lục Ngạn mở ra những cơ hội mới cho sản phẩm Vải thiều, sản phẩm đặc trưng của Lục Ngạn tiếp tục chinh phục thị trường quốc tế. Hoạt động tình nguyện tham gia giúp đỡ nhân dân thu hoạch và tiêu thụ vải thiều là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cơ bản của Huyện đoàn hàng năm. Hằng năm, Huyện đoàn phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội kết nối giữa người lao động và người sử dụng lao động trong mùa thu hoạch vải thiều. Trong nhiệm kỳ, tuổi trẻ toàn Huyện đã giúp đỡ 976 lượt gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, gia đình bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 thu hoạch 829 tấn vải thiều. Năm 2021, Huyện đoàn đã phối hợp với Ban Chuyên môn Tỉnh đoàn tiêu thụ trên 300 tấn vải thiều trên sàn thương mại điện tử, đội thanh niên tình nguyện cấp tỉnh giúp đỡ 32 gia đình của 2 xã Tân Hoa và Quý Sơn thu hoạch 90,6 tấn vải tươi, giúp đỡ 7 gia đình sấy 19 tấn vải[2]. Các cấp bộ Đoàn đã chủ động kết nối, hỗ trợ thu hoạch và tiêu thụ vải thiều và các nông sản khác cho nhân dân vùng bị cách ly, đặc biệt là các loại nông sản có thời gian thu hoạch ngắn như lúa, ngô, ớt, vải thiều.

Để tăng tính cạnh tranh trên thị trường nông sản, các sản phẩm nông nghiệp được cấp mã số vùng trồng để tham gia vào thị trường châu Âu và các nước trong khu vực theo hướng dẫn tại Quyết định số 3156/QĐ-BNN-TT ngày 19/8/2022 của Bộ NN&PTNT. Các tổ chức CT-XH như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội CCB... phối hợp với cơ quan chuyên môn các huyện xác định các loại cây trồng ưu tiên cấp mã số vùng trồng theo điều kiện cụ thể, giám sát, phản biện và kiểm tra công tác cấp, quản lý và sử dụng mã số vùng trồng một cách khách quan, công khai minh, bạch cho chính quyền và người dân.

Bốn là, trong phát huy vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã nông nghiệp trong sản xuất tập trung, chuyên canh các sản phẩm chủ lực của huyện

Từ năm 2019, Huyện đoàn đã phối hợp với Ban Thanh niên nông thôn, Liên minh hợp tác xã (HTX) Tỉnh tổ chức Lớp tập huấn sáng lập viên chuẩn bị thành lập HTX và khởi nghiệp cho thanh niên với các nội dung: Phổ biến các kiến thức về Luật HTX 2012, các cơ chế, chính sách đối với các HTX, hướng dẫn thành lập HTX trong thanh niên[1].

Hội Phụ nữ Huyện tổ chức Hội nghị tuyên truyền, thực hiện Đề án 939 “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp” năm 2020 cho 130 chị là cán bộ Hội các xã, thị trấn, thành viên Câu lạc bộ nữ doanh nhân Huyện; trong đó tập trung tuyên truyền về Tổ phụ nữ liên kết sản xuất nông nghiệp an toàn, tuyên truyền các văn bản mới về việc thành lập và tham gia HTX, khởi sự, khởi nghiệp.

Hội Nông dân Huyện tiếp tục chỉ đạo các cơ sở Hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và phát triển các loại hình kinh tế tập thể phù hợp với từng địa phương; chỉ đạo các cơ sở hội tổ chức thành lập tổ liên kết, tổ hợp tác... Giao chỉ tiêu thành lập tổ liên kết trong sản xuất và tiêu thụ cho 50% chi hội và 50% các tổ liên kết hoạt động có hiệu quả. Kết quả các cơ sở hội thành lập mới và ra mắt 30 tổ liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, tổng số tổ liên kết trong toàn Huyện lên 549 tổ, với 4.665 thành viên. Theo Báo cáo Tổng kết công tác Hội và phong trào nông dân năm 2021, tính đến 30/10/2021 tổng số HTX do Hội Nông dân thành lập và quản lý là 8 hợp tác xã với số thành viên là 138 người[5].

3. Một số giải pháp phát huy vai trò các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng dân số huyện Lục Ngạn nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng kịp thời nhu cầu năng lực phát triển sinh kế, sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, KH-KT gắn với số hoá thị trường cho người dân trên địa bàn Huyện.

Thứ hai, bổ sung tăng cường cả về chất và lượng nguồn nhân lực của các tổ chức CTXH cấp xã, thôn trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, giảm nghèo bền vững đáp ứng được yêu cầu phân cấp thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ địa phương đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số có năng lực, phẩm chất cần thiết.

Thứ ba, xây dựng chính sách, cơ chế hỗ trợ lao động vay vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cho đồng bào dân tộc thiểu số tránh tái nghèo. Cần có các chính sách phải giải quyết được những khó khăn trong quá trình sản xuất, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường, giải quyết đầu ra cho nông sản phát huy vai trò chủ thể thụ hưởng chính sách của người dân.

Thứ tư, đổi mới công tác xúc tiến, tiêu thụ theo hướng kết hợp giữa hình thức trực tuyến và truyền thống, phù hợp với điều kiện, bối cảnh từng giai đoạn cụ thể; tăng cường xúc tiến thương mại tại các thị trường tiềm năng, ứng dụng và phát huy có hiệu quả nền tảng xúc tiến thương mại điện tử và các hình thức xúc tiến tiêu thụ trên nền tảng số, hạ tầng Internet.

Thứ năm, phát huy tối đa vai trò phối hợp cùng các sở, ban ngành và Ủy ban nhân dân Huyện của các tổ chức CT-XH trong việc tổ chức thực hiện chương trình, dự án, tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương. Phối hợp với các cơ quan chuyên môn triển khai kế hoạch chuyển dịch cơ cấu phù hợp cho nhiều loại vải thiều nhằm kéo dài vụ thu hoạch, giảm sức ép trong khâu tiêu thụ. Ở những diện tích đã được cấp mã vùng trồng cần tiếp tục nhân rộng mô hình sản xuất vải hữu cơ, coi đây là định hướng trong những năm tiếp theo.

Sản xuất vải thiều thuận lợi, chất lượng ngày càng cao._Nguồn ảnh https://bacgiang.gov.vn/

Kết luận

Trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của huyện Lục Ngạn đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ phương thức sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao gắn với việc hình thành, phát triển các thương hiệu sản phẩm. Trong những thành công đó có sự đóng góp không nhỏ của các tổ chức CT-XH. Tuy nhiên, cần phải tiếp tục thực hiện và phát huy hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho người dân huyện Lục Ngạn, Bắc Giang đặc biệt là phát huy vai trò của các tổ chức CT-XH trong hỗ trợ, thúc đẩy các hộ gia đình chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp, tái cơ cấu lĩnh vực nông nghiệp sao cho phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng vùng, địa phương.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đoàn Thanh niên huyện Lục Ngạn (2019), Báo cáo số 138-BC/ĐTN về Kết quả công tác Đoàn, Hội và phong trào thanh thiếu nhi năm 2019.

[2] Đoàn Thanh niên huyện Lục Ngạn (2021), Báo cáo Ban Chấp hành Huyện đoàn Lục Ngạn khoá XXII tại Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Lục Ngạn lần thứ XXIII.

[3] Hội Cựu chiến binh huyện Lục Ngạn (2022), Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh huyện Lục Ngạn khoá VI tại Đại hội đại biểu lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022-2027.

[4] Hội Nông dân huyện Lục Ngạn (2019), Báo cáo Công tác Hội và phong trào nông dân năm 2019.

[5] Hội Nông dân huyện Lục Ngạn (2021), Báo cáo Số 318-BC/HNDH Tổng kết công tác Hội và phong trào nông dân năm 2021, phương hướng, nhiệm vụ năm 2022.

[6] Hội Phụ nữ huyện Lục Ngạn (2020), Báo cáo số 200/BC-BTV, Tổng kết công tác Hội và phong trào phụ nữ năm 2020; phương hướng, nhiệm vụ năm 2021.

[7] Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2021), Kế hoạch số 685/KH-UBND về Cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021-2025, ngày 23/12/2021.

[8] Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Lục Ngạn (2022), Báo cáo kết quả 03 năm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp nhiệm kỳ 2019-2024.

Đọc thêm

Giải pháp thực hiện Cam kết của Việt Nam về "Net zero" vào năm 2050

Tác giả: Phạm Tú Tài

(GDLL) - Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net Zero). Bài viết tập trung phân tích những tác động của phát thải khí nhà kính, dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu; nỗ lực của Việt Nam trong giảm phát thải khí nhà kính và đề xuất một số giải pháp Việt Nam cần thực hiện trong lộ trình "Net Zero" vào năm 2050.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Vũ Thị Hoài Phương

(GDLL) - Trong quá trình xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò hết sức quan trọng. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã nỗ lực hết mình để thực hiện chuyển đổi số, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Bài viết nghiên cứu về thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tác giả: Lục Việt Dũng

(GDLL) - Bài viết khái quát sự phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nhấn mạnh những nội dung mới tại Nghị quyết số 27-NQTW; từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm các đặc trưng này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay

Tác giả: ThS Lưu Thị Thu Phương

(LLCT) - Nghiên cứu, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một hoạt động quan trọng trong lãnh đạo, quản lý xã hội, do đó cần không ngừng được đổi mới công tác này để giúp cấp ủy, chính quyền phát hiện những điểm nóng về tư tưởng, kịp thời giải tỏa xung đột xã hội tiềm tàng. Bài viết tập trung làm rõ các phương pháp định hướng dư luận xã hội đang được sử dụng, nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh

Tác giả: ThS. Cao Phan Giang

(GDLL) - Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là những danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho dòng tư tưởng về dân ở Việt Nam. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi hội tụ những giá trị vượt trội của thời đại phong kiến với và nhiều quan điểm tiến bộ về dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết tinh của tư tưởng thân dân truyền thống cùng những giá trị tiến bộ của nhân loại trong ý thức hệ của giai cấp công nhân. Sự giống và khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, ý thức hệ và bài học dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của hai tác giả cho thấy sự vận động và phát triển liên tục của dòng tư tưởng về dân Việt Nam.