Thứ Hai, ngày 15/05/2023, 23:39

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

GIANG THỊ HUYỀN
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.


Vào những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội nước ta phức tạp. Về chính trị, kinh tế - xã hội: nhân dân ta đói khổ, lầm than trong tình cảnh một cổ hai tròng. Về đời sống văn hóa - tư tưởng: bị chia rẽ bởi sự xuất hiện nhiều trào lưu, tư tưởng đan xen: bên cạnh tư tưởng thân Pháp có tư tưởng thân Nhật; thuyết Âu hóa chen lẫn thuyết Đại Đông Á; tư tưởng tờrốtkít; chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; các tư tưởng triết học duy tâm, định mệnh chen lẫn với các trường phái siêu hình, bí hiểm, chán chường, bi quan, “tháp ngà”... Từ thực tiễn hơn mười năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng nhận thấy cần phải phát huy vai trò to lớn của mặt trận văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Theo đó, Đảng phải nắm lấy và giương cao ngọn cờ lãnh đạo văn hóa, thức tỉnh được tầng lớp trí thức đang bị chia rẽ, qua đó góp phần thức tỉnh, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xóa bỏ sự nô dịch về văn hóa của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, tập hợp đông đảo những người hoạt động văn hóa yêu nước vào Hội Văn hóa cứu quốc - một thành viên của Mặt trận Việt Minh.

Đề cương về văn hóa Việt Nam (gọi tắt là Đề cương) ra đời là một sự kiện chính trị quan trọng, tạo nền tảng ban đầu xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới. Lần đầu tiên Đảng vận dụng một cách toàn diện và có hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn văn hóa Việt Nam. Cũng là lần đầu tiên, Đảng trình bày những nhận định tổng quát về lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ; đồng thời chỉ rõ nguy cơ văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; đề ra đường lối cách mạng về văn hóa và nguyên tắc xây dựng một nền văn hóa mới.

Ngay sau khi ra đời, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã có sức lan tỏa mạnh mẽ bởi bản thân nội dung của nó được tạo dựng và hoàn chỉnh với một phương pháp tiếp cận thực sự khoa học và quan trọng hơn là đã đáp ứng những yêu cầu thực tiễn đặt ra. Mặc dù mới dừng ở những nét phác thảo nhưng với những nội dung được đề cập, bản Đề cương xứng đáng là một văn kiện đặt nền móng, mở đường cho xây dựng lý luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam.

1.Nội dung và giá trị cơ bản của Đề cương về văn hóa Việt Nam

Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 cho Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo. (Ảnh tư liệu)

Với dung lượng ngắn - chỉ khoảng 1300 từ[2], bản Đề cương đã trình bày, phân tích một cách ngắn gọn và sâu sắc những vấn đề văn hóa Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ. Tuy ngắn gọn, súc tích nhưng bản Đề cương về văn hoá đã thể hiện rõ các quan điểm, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của nền văn hóa dân tộc cần hướng đến.

Thứ nhất, phạm vi nội hàm của văn hóa, Đề cương xác định “bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật”[2]. Mở rộng quan niệm về văn hóa, đặt thành tố tư tưởng lên hàng đầu, gắn tư tưởng với văn hóa thể hiện một tư duy mới mẻ và khoa học, phản ánh nhận thức đúng đắn chức năng của văn hóa theo quan điểm Mácxít của Đảng. Bởi vì, nói đến tư tưởng là đề cập nội dung cốt lõi nhất của văn hóa, vì nó có quan hệ nhiều mặt đến đời sống tinh thần của con người: Từ ý thức hệ, thế giới quan, nhân sinh quan đến tâm lý, đạo đức, lối sống. Nếu không có tư tưởng gắn với văn hoá thì văn hóa cũng chỉ là phương tiện giải trí, không mang lại sức mạnh và cũng không gắn với phát triển. Hơn nữa, trong lúc tình hình văn hóa diễn ra phức tạp với sự xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng và học thuật khác nhau khiến cho nhiều người trong giới trí thức có cái nhìn không đúng về văn hóa nước nhà thì đặt vấn đề tư tưởng lên hàng đầu là nhận thức đúng đắn và cần thiết.

Thứ hai, từ chỗ xác định đúng phạm vi của văn hóa, Đề cương đã chỉ mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị: “... nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”[2]. Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, văn hóa phản ánh và chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng. Đây chính là vấn đề cốt lõi trong quan niệm văn hóa theo lập trường Mácxít. Theo đó, một xã hội xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì giai cấp thống trị từ chỗ nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu, đã tiến hành bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị và nô dịch về văn hóa. Do vậy, cuộc đấu tranh giữa nhân dân lao động với giai cấp bóc lột, thống trị bao giờ cũng diễn ra rất gay gắt trên cả ba lĩnh vực: Kinh tế, chính trị và văn hóa. Trong bối cảnh đất nước đang bị nô lệ, áp bức thì vấn đề lật đổ giai cấp thống trị, giành chính quyền về tay nhân dân là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu. Theo đó, phải hoàn thành cách mạng chính trị trước rồi mới tiến hành cách mạng văn hóa “Cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị”.

Không dừng lại ở đó, Đề cương còn công khai thể hiện quan điểm của Đảng đối với vấn đề văn hóa: “Cách mạng văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động” và “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”[2]. Việc xác định văn hóa là một mặt trận mà Đảng phải quan tâm lãnh đạo là sự quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm này vừa xuất phát từ tính tất yếu khách quan trong việc nắm lấy lĩnh vực tư tưởng, văn hóa khi giai cấp thống trị lên nắm quyền lãnh đạo xã hội vừa thể hiện tính tuyệt đối và toàn diện trong lãnh đạo mọi mặt đời sống xã hội của Đảng. Đồng thời cũng thể hiện bản lĩnh của một Đảng chân chính và cách mạng. Vì thời điểm Đảng ban hành Đề cương về văn hóa, chúng ta còn chưa giành được chính quyền về tay nhân dân.

Thứ ba, trên cơ sở phân tích lịch sử, tính chất văn hóa Việt Nam và chỉ rõ những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp, Đề cương đã xác định rõ mục tiêu cũng là tương lai của văn hóa Việt Nam: “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”[5]. Để thực hiện được mục tiêu này, Đề cương nêu những nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đây là cuộc cách mạng có nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền làm chủ cho nhân dân lao động. Nền văn hóa phục vụ cho cuộc cách mạng ấy phải là nền văn hóa có tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng. Cuộc vận động văn hóa vì thế cũng phải được tiến hành theo ba nguyên tắc: Dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Dân tộc hóa là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Khẳng định phải dân tộc hóa vì văn hóa Việt Nam trải qua hàng trăm năm dưới ách áp bức của thực dân đã và đang bị nô dịch và chia rẽ nặng nề. Đó là một nền văn hóa thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và thống nhất dân tộc. Khoa học hóa là chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ. Đặt nguyên tắc khoa học hóa lên vị trí ưu tiên vì một nền văn hóa muốn thực sự mang tính cách mạng, trước hết nó phải có một nền tảng khoa học chắc chắn làm tiền đề. Trong khi đó, ở một nước nông nghiệp lạc hậu thì chủ nghĩa kinh nghiệm thường lấn át tri thức khoa học và khoa học trong một nước bị đô hộ thì khó mà được ưu tiên phát triển. Đại chúng hóa là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng. Ở một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến lúc đó, phần lớn người dân bị mù chữ, không có điều kiện thụ hưởng, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, thậm chí người dân bị gạt khỏi đời sống văn hóa. Vì vậy, nền văn hóa mới phải là văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân. Phải làm cho người dân biết đọc, biết viết, biết thưởng thức và tham gia sáng tạo nghệ thuật. Ba nguyên tắc trên đây là ba khâu có quan hệ chặt chẽ không thể tách rời và tác động lẫn nhau. Mỗi khâu trong đó nhằm chống lại một trong ba nhược điểm, ba căn bệnh lớn của văn hóa Việt Nam đương thời. Đồng thời, đây cũng là ba khẩu hiệu hành động, kêu gọi đội ngũ trí thức tập hợp lực lượng, xây dựng một nền văn hóa mới cho tương lai của dân tộc.

Sau khi ra đời, Đề cương về văn hóa nhiều lần được bổ sung, hoàn thiện cùng tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư Trường Chinh là người khởi thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam đồng thời, cũng là người tiếp tục bổ sung và hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng cho phù hợp với yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Đặc biệt là trong báo cáo trình bày tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (tháng 7/1948) với tiêu đề Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Tổng Bí thư Trường Chinh đã làm rõ hàng loạt vấn đề mà Đề cương về văn hóa chưa có điều kiện trình bày hoặc trình bày một cách chưa đầy đủ, chưa thuyết phục, như: Khái niệm mở rộng về văn hóa; về nội dung, tính chất, mối quan hệ giữa các nguyên tắc; về tờrốtkít ở Việt Nam; về nội dung và hình thức của nền văn hóa mới cũng như vấn đề kế thừa có chọn lọc các nền văn hóa khác nhau trên thế giới để làm giàu nền văn hóa Việt Nam, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, giữa nghệ thuật và tuyên truyền... Tuy nhiên, chỉ với những luận điểm trên, Đề cương về văn hóa Việt Nam xứng đáng là một văn kiện mang tầm vóc “cương lĩnh” của Đảng, là ngọn đuốc sáng soi đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

2.Vận dụng và phát triển Đề cương vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Đảng ta nhận định, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội rất rối ren của đất nước những năm 40 thế kỷ XX , Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào văn hoá tiến bộ, văn hoá cứu quốc nhằm chống lại văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu...(Nguồn ảnh: https://quochoi.vn/)

Tám mươi năm đã trôi qua kể từ khi Đề cương về văn hóa ra đời, cách mạng Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài với những giai đoạn lịch sử khác nhau. Ở mỗi giai đoạn, gắn với mỗi nhiệm vụ chính trị, Đảng luôn điều chỉnh, bổ sung các quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa để văn hóa có thể phát huy một cách hiệu quả nhất góp phần phục vụ sự nghiệp cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, với sự nhận thức về văn hóa được mở rộng và ngày càng sâu sắc, nhiều nội dung đã được Đảng tiếp tục quán triệt, bổ sung và phát triển trở thành những quan điểm chỉ đạo để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước hiện nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) được coi là bản “cương lĩnh thứ hai” về văn hóa của Đảng - chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và tiếp nối là Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (2014) như bản “cương lĩnh thứ ba về văn hóa”- bổ sung những quan điểm, đường lối, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Những định hướng lớn bao gồm:

Về phạm vi và nội hàm của văn hóa: Đã được nhìn nhận một cách bao quát hơn, sâu hơn, có sự gắn kết chặt chẽ tới đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng xác định: Văn hóa là toàn bộ những sáng tạo tinh thần, tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa không chỉ là văn học - nghệ thuật, mà bao gồm tám lĩnh vực cơ bản: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; môi trường văn hóa; giáo dục - đào tạo; hệ thống thông tin đại chúng; di sản văn hóa; chính sách văn hóa đối với tôn giáo, giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa thể chế, thiết chế văn hóa. Trong đó 4 lĩnh vực: Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được xác định là những lĩnh vực quan trọng nhất. Đồng thời, Đảng cũng khẳng định hệ giá trị chính là cốt lõi của văn hóa cộng đồng, dân tộc: “Văn hóa chính là những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân tình, tiến bộ”[3, tr.17]. Nói cách khác, văn hóa chính là “hồn cốt” của một dân tộc.

Về vị trí, vai trò của văn hóa với phát triển: Với nhận thức văn hóa ở chiều sâu như vậy, Đảng đã đặt văn hóa vào vị trí trung tâm, có mối quan hệ chặt chẽ với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn hóa trở thành “nền tảng tinh thần của xã hội”, vừa đóng vai trò dẫn dắt, định hướng các lĩnh vực của đời sống xã hội; vừa là bệ đỡ, điều tiết các mục tiêu của các lĩnh vực này. Với ý nghĩa như vậy, vai trò của văn hóa đang thực sự trở thành “sức mạnh nội sinh” của sự phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”[1, tr.17]. Bổ sung và phát triển thêm một bước nữa, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014): Coi văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo đó, văn hóa không chỉ tác động đến kinh tế - xã hội mà tác động đến toàn bộ các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao... nói cách khác, văn hóa và phát triển bền vững có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời. Phát biểu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ 2 (11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”[3, tr.27].

Về mục tiêu và tính chất của nền văn hóa Việt Nam: Từ tổng kết thực tiễn xây dựng văn hóa, trải qua quá trình tìm tòi không hề đơn giản, khắc phục những hạn chế, đôi khi cả những nhận thức còn ít nhiều giáo điều, máy móc, Đảng đã bổ sung, phát triển mục tiêu và tính chất của nền văn hóa Việt Nam. Từ nền văn hóa “dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”[1, tr. 320] được xác định trong Đề cương trải qua các thời kỳ được điều chỉnh thành “nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc” (Đại hội III, 1960), rồi “nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc” (Đại hội IV, 1976) và hiện nay là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Và đây cũng chính là một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang xây dựng theo Cương lĩnh 2011 (sửa đổi, bổ sung) đã chỉ ra.

Kết luận

Như vậy, kể từ khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, trong suốt 80 năm lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đường lối văn hóa của Đảng luôn có sự nhất quán, kế thừa; đồng thời luôn được bổ sung, điều chỉnh và phát triển để phù hợp với yêu cầu cách mạng của từng giai đoạn. Đây là kết quả của tư duy lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 80 năm đã trôi qua, nhưng những tư tưởng của bản Đề cương vẫn còn nguyên giá trị góp phần định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.

 Tài liệu tham khảo:

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3]Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.


Đọc thêm

Giải pháp thực hiện Cam kết của Việt Nam về "Net zero" vào năm 2050

Tác giả: Phạm Tú Tài

(GDLL) - Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net Zero). Bài viết tập trung phân tích những tác động của phát thải khí nhà kính, dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu; nỗ lực của Việt Nam trong giảm phát thải khí nhà kính và đề xuất một số giải pháp Việt Nam cần thực hiện trong lộ trình "Net Zero" vào năm 2050.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Vũ Thị Hoài Phương

(GDLL) - Trong quá trình xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò hết sức quan trọng. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã nỗ lực hết mình để thực hiện chuyển đổi số, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Bài viết nghiên cứu về thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tác giả: Lục Việt Dũng

(GDLL) - Bài viết khái quát sự phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nhấn mạnh những nội dung mới tại Nghị quyết số 27-NQTW; từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm các đặc trưng này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay

Tác giả: ThS Lưu Thị Thu Phương

(LLCT) - Nghiên cứu, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một hoạt động quan trọng trong lãnh đạo, quản lý xã hội, do đó cần không ngừng được đổi mới công tác này để giúp cấp ủy, chính quyền phát hiện những điểm nóng về tư tưởng, kịp thời giải tỏa xung đột xã hội tiềm tàng. Bài viết tập trung làm rõ các phương pháp định hướng dư luận xã hội đang được sử dụng, nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh

Tác giả: ThS. Cao Phan Giang

(GDLL) - Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là những danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho dòng tư tưởng về dân ở Việt Nam. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi hội tụ những giá trị vượt trội của thời đại phong kiến với và nhiều quan điểm tiến bộ về dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết tinh của tư tưởng thân dân truyền thống cùng những giá trị tiến bộ của nhân loại trong ý thức hệ của giai cấp công nhân. Sự giống và khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, ý thức hệ và bài học dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của hai tác giả cho thấy sự vận động và phát triển liên tục của dòng tư tưởng về dân Việt Nam.