Thứ Hai, ngày 16/05/2022, 16:19

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ đổi mới

TẠ QUỐC HƯNG
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

(GDLL) - Quan điểm về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “kim chỉ nam” cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bài viết trình bày quan điểm của Đảng về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới, đánh giá thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Từ khóa: Bảo vệ Tổ quốc; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; thời kỳ đổi mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm tàu hộ vệ tên lửa Lý Thái Tổ năm 2016 (Ảnh: TTXVN)

Đặt vấn đề

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển tất yếu của dân tộc Việt Nam. Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc (BVTQ), tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN, trong đó BVTQ là điều kiện, tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển nhanh, bền vững.

1. Quan điểm của Đảng về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong việc đổi mới tư duy và đường lối phát triển đất nước. Đảng đã phân tích, nhận định, đánh giá đúng tình hình, nắm vững những yếu tố tác động đến an ninh, quốc phòng, nhận thức rõ bạn - thù, thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc với phương châm thêm bạn, bớt thù, tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân, đi đôi với phân hoá cao độ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu. Đảng khẳng định xây dựng đất nước phải gắn chặt với BVTQ, bảo vệ chế độ; chiến thắng giặc ngoài gắn chặt với đánh bại thù trong.

Tại Đại hội VII (1991), Đảng xác định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ BVTQ, luôn luôn coi trọng quốc phòng-an ninh, coi đó luôn luôn là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”[1, tr.39]. Đồng thời, lần đầu tiên Đảng xác định rõ nội dung của nhiệm vụ BVTQ: “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác”[1, tr.85-87]; và sự nghiệp BVTQ tiếp tục được kế thừa và phát triển qua các kỳ Đại hội của Đảng.

Kế thừa, bổ sung và phát triển Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng khẳng định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[2, tr.81].

Đại hội XI (2011), Đảng đã đưa vấn đề: “giữ vững chủ quyền biển, đảo” và “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống” vào nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đồng thời nhấn mạnh “an ninh chủ động”.

Nhất quán về nhiệm vụ BVTQ trong Cương lĩnh, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) (2013) về “Chiến lược BVTQ trong tình hình mới”, Đảng bổ sung đầy đủ và toàn diện hơn: nhiệm vụ BVTQ không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ nền văn hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, xác định rõ đối tác, đối tượng trong xây dựng và BVTQ.

Đại hội XII của Đảng coi nhiệm vụ BVTQ còn là: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”[4, tr.148]. Nếu như trong Cương lĩnh chủ trương “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế” thì Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”[4, tr.149].

Đại hội XIII cho thấy tư duy mới của Ðảng trong xác định nhiệm vụ BVTQ: “Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”[7, tr.48]; với mục tiêu: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng XHCN”[7, tr.156]; để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ cần: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”[7, tr.156-157]; cần “Tiếp tục nghiên cứu phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới”[7, tr.159].

Bên cạnh đó, tại Ðại hội XIII của Ðảng đã xác định rõ: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”[7, tr.157]. Ðồng thời, yêu cầu: “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược BVTQ; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”[7, tr.157].

Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ BVTQ. Qua mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng, nhiệm vụ BVTQ luôn được bổ sung, phát triển đáp ứng yêu cầu đặt ra.

2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới

Trải qua 35 năm đổi mới, về thực hiện nhiệm vụ BVTQ Việt Nam đã đạt nhiều thắng lợi quan trọng.

Thành tựu cơ bản, bao trùm là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[7, tr.105].

Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Tư duy về quốc phòng, an ninh, đối tác, đối tượng, BVTQ có bước phát triển mới và ngày càng hoàn thiện. Sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Chủ động phát hiện, có các phương án, ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố có thể gây bất lợi đột biến. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, được củng cố vững chắc. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ đối tác, đối tượng có bước chuyển quan trọng. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh, tham gia tích cực và hiệu quả vào việc gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm; phòng ngừa và ứng phó kịp thời với các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động.

Bên cạnh những kết quả đạt được, còn một số hạn chế, bất cập cả về nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ BVTQ như: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân còn chưa đầy đủ; cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa thật hoàn thiện. Kết hợp nhiệm vụ quốc phòng với an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội và đối ngoại chưa thật hài hòa, đồng bộ; cơ chế kiểm tra, giám sát nội dung kết hợp chưa thật cụ thể, rõ ràng, xử lý sai phạm thiếu kiên quyết. Sự phối hợp giữa xây dựng nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân chưa thật chặt chẽ, vẫn còn thiếu cơ chế và giải pháp cụ thể. Vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn biến phức tạp. Công tác nghiên cứu, đánh giá dự báo tình hình có mặt chưa cụ thể, kịp thời; xử lý chưa triệt để, có nơi vẫn để xảy ra “điểm nóng”, những vụ gây mất ổn định xã hội.

3. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay

Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ BVTQ, cần tiếp tục tập trung thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết, kiên trì thực hiện đường lối, quan điểm, tư duy mới của Đảng về BVTQ. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, với tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học, nhạy bén, Đảng đề ra đường lối xây dựng và BVTQ đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, tạo ra sức mạnh tổng hợp trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế, phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội để xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ hai, nắm vững và thực hiện tốt phương châm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ BVTQ, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Phương châm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là cơ sở để xác định đúng mục tiêu, phương thức bảo vệ sự bất khả xâm phạm, bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nội dung trọng yếu là: Nắm chắc tình hình và giải quyết đồng bộ các vấn đề do thực tiễn đặt ra; dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, tình hình trong nước và từng địa bàn cụ thể; nhận rõ các thách thức quốc phòng, an ninh, các tình huống xảy ra; đưa ra các định hướng hành động chính xác, kịp thời, linh hoạt để đối phó có hiệu quả với mọi tình huống, không để bất ngờ, bị động. Mục tiêu tối ưu của việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh chính là ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ xung đột, bất ổn, sẵn sàng ứng phó và ứng phó thành công trong mọi tình huống. Nắm chắc các vấn đề đó chính là những giải pháp căn bản để thực hiện tốt nhiệm vụ BVTQ, bảo đảm an ninh quốc gia. Nắm vững phương châm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân không ngừng lớn mạnh, tổ chức bộ máy tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh thông nhiệm vụ, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và Nhân dân giao phó. Tăng cường thực lực quốc phòng, an ninh của đất nước, đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng hiện đại và lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận diện và vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động nguy hại của các thế lực thù địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và cho toàn dân. Lựa chọn nội dung và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Chủ động trong cuộc đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo người dân tham gia. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giải quyết hài hòa việc phát triển kinh tế - xã hội đất nước với xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.

Thứ tư, có phương thức tác chiến phù hợp để BVTQ, sẵn sàng đối phó với chiến tranh kiểu mới, chiến tranh công nghệ cao, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Nghiên cứu, giải quyết đồng bộ các vấn đề chiến lược, từ quan điểm, nguyên tắc và nội dung, phương thức tác chiến. Tập trung xây dựng lực lượng, vũ khí, trang bị, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đi thẳng vào hiện đại; nghiên cứu sản xuất các trang bị, vũ khí hiện đại để ứng phó với tình hình. Tiếp tục khẳng định: chiến tranh nhân dân phát triển vẫn là phương thức hữu hiệu để đối phó với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới; trang bị vũ khí hiện đại là quan trọng, nhưng vấn đề quyết định vẫn là nhân tố con người. Cần bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị, có trình độ khai thác, làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại. Phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới để có những giải pháp hữu hiệu phòng, chống chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới. Hiện nay, mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang trở thành vấn đề toàn cầu, cả thế giới cùng chung tay để phối hợp giải quyết. Vì vậy, cần nghiên cứu những mức độ, khả năng và tình huống diễn biến của các loại hình an ninh phi truyền thống đối với nước ta để có sự chuẩn bị chu đáo và có các giải pháp hữu hiệu ứng phó. Đồng thời, tích cực chủ động tham gia các định chế và giải pháp toàn cầu để giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống một cách hiệu quả.

Thứ năm, tăng cường bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Xác định rõ nguyên tắc: Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, thường xuyên trực tiếp là của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước; sự tham gia của toàn dân, trong đó, lực lượng vũ trang đóng vai trò then chốt. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về tư tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - không quân, lực lượng Cảnh sát biển... chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu đủ sức bảo vệ vững chắc vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển; đẩy mạnh xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển; củng cố xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên các đảo và trên đất liền. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, khả năng nghiên cứu, nắm và dự báo sớm, sát, đúng tình hình để chủ động tham mưu xử lý các tình huống kịp thời, hiệu quả. Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, an ninh trong bảo vệ chủ quyền, biển, đảo.

Kết luận

Quan điểm về BVTQ được Đảng xác định trong Cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết... là sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết thực tiễn của Đảng, nhất là qua 35 năm đổi mới. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng, Nhà nước và nhân dân triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, BVTQ trong tình hình mới mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-4-2018, của Bộ Chính trị về “Chiến lược quốc phòng Việt Nam”.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Kết luận số 31-KL/TW, ngày 16-4-2018, của Bộ Chính trị về “Chiến lược quân sự Việt Nam”.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.