Đặt vấn đề
Trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc Việt Nam, Phan Châu Trinh đã góp thêm sinh khí cho luồng tư
tưởng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX. Tư tưởng "chấn dân
khí” của ông là một trong những ngọn đèn soi sáng, thức tỉnh dân
tộc, góp phần quan trọng vào phong trào Duy Tân. Trong bối cảnh ngày nay, tư
tưởng của Phan Châu Trinh tiếp tục phát huy giá trị, là những bài học vô giá
cho sự nghiệp đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam.
1. “Chấn dân
khí” trong tư
tưởng Phan Châu
Trinh
Phan Châu Trinh (1872 -
1926) là một nhà Nho học đích thực, nhưng lại có tư tưởng tân tiến với xu hướng
cải cách, một xu hướng chung của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Các sĩ phu nho học như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã dần dần cởi bỏ lớp áo Nho
sĩ để hướng đến tư duy chính trị. Tư duy đổi mới của Phan Châu Trinh được diễn
giải ngắn gọn trong “Thư gửi Nguyễn Ái Quốc” ngày 18-02-1922 với ba mục tiêu
là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh
nhằm chấn hưng đất nước, khôi phục khí thế hào hùng của dân tộc. Tiếp thu những
tư tưởng canh tân, tiến bộ, Phan Châu Trinh đã kế thừa những giá trị về mở mang
nghề nghiệp, học thực dụng, đổi mới đất nước. So với các nhà tư tưởng canh tân
đương thời, tư tưởng của Phan Châu Trinh tiến bộ hơn, ông nhận thấy được vai
trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước, tư tưởng và hành động
của ông luôn hướng đến Nhân dân.
Là người khởi xướng phong
trào Duy tân, Phan Châu Trinh đã xác định rất rõ phương thức của phong trào là
bằng con đường giáo dục. Ông cùng với các chí sĩ đã thống nhất quan niệm: nước
Nam ta lúc này bị lâm vào cảnh tối tăm, nhục nhã, là chỉ tại bởi chế độ quân
chủ, mà nền móng của nó là tư tưởng phong kiến đã thấm sâu vào đầu óc người dân
hàng ngàn năm. Thời điểm lịch sử mới của nhân loại đã tới từ lâu. Các nước Âu,
Mỹ, Nhật Bản đã tân tiến, cường thịnh đủ sức đè bẹp nhiều nước. Phải duy tân xã
hội theo hướng Tây Âu, Nhật Bản đã làm. Đó là việc cấp bách của nền giáo
dục. Nên phải thay thế nền giáo dục Nho giáo bằng một nền giáo dục mới về hình
thức và nội dung. Từ quan niệm ấy, Phan
Châu Trinh chủ trương tiến hành cuộc cách mạng về giáo dục cho học sinh và dân
chúng.
Chấn dân khí của Phan Châu Trinh là chú trọng làm cho mọi
người thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, giác ngộ được quyền lợi của mình
giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ quân chủ chuyên chế. Sự trì trệ, suy vong
của dân tộc không phải từ bản chất của dân tộc ta kém cỏi. Từ buổi đầu lịch sử,
dân tộc ta đã có mấy trăm năm dựng nước trở thành một quốc gia có độc lập, chủ quyền,
có nền văn hóa ổn định và bền vững. Sự kém cỏi của dân tộc ta một phần là do chúng
ta không tự lực, tự cường, không chịu học hỏi, làm mất đi cái hào khí, cái sức
mạnh truyền thống mấy ngàn năm của dân tộc. Phan Châu Trinh khảo cứu lịch sử
nước nhà và đi đến kết luận: “Lấy lịch sử mà nói thì dân tộc Việt Nam không
phải là một dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là một dân tộc không thông minh,
thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay mà vẫn còn mê mê muội
muội, bịt mắt vít tai không chịu xem xét, không chịu học hỏi lấy cái hay cái
khéo của người”[2, tr.137].
Tư
tưởng chấn dân khí của Phan Châu
Trinh thể hiện tính
cách mạng nhằm phục hưng truyền thống hào hùng của dân tộc [9,
tr.8]. Chế độ thực dân
phong kiến đã làm cho dân mê muội trong sự an phận, xa lánh chính trị, Phan
Châu Trinh viết: “Còn nó sợ dân biết chính trị nhiều thì nó lại sinh ra cách
mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được nói đến chính trị”[2. tr
805].
Muốn chấn dân khí còn phải nâng cao dân quyền[9,
tr.141]. Phan Châu
Trinh là tiêu biểu nhất cho việc đòi hỏi dân quyền ở Việt nam đầu thế kỷ XX.
Hiệu quả đạt được về mặt này không phải là nhỏ. Cùng với việc nâng cao nhận
thức về dân quyền thì cần phải giáo dục cho nhân dân ý thức về quyền lợi và
nghĩa vụ của chính họ, làm cho họ xác định được vị trí của bản thân và của dân
tộc trong thời đại mới. Việc giáo dục ý thức dân quyền trước hết là làm cho
người dân ý thức được vị trí của mình trong tương quan với đất nước, với sự
phục hưng dân tộc. Hai là, khiến cho dân ý thức được trách nhiệm của họ trong
việc đứng ra gánh vác việc chung, ý thức được quyền cử ra những đại diện cho
quyền lợi của mình. Ba là, người dân được tự do lập hội làm ăn. Bốn là, đưa đến
cho nhân dân ý thức về quyền dân được mở mang trí tuệ. Năm là, xây dựng hình
mẫu người dân thời đại mới - tân dân, là những người dám từ bỏ nhân sinh quan
lạc hậu, phải được giáo dục, nâng cao dân trí, từ đó chấn dân khí và hậu dân
sinh.
Bên
cạnh việc nâng cao dân trí Phan Châu Trinh còn đề xuất tư tưởng phát triển kinh tế. Trong xã
hội phong kiến, nông vi bản nên
làm ăn kinh tế, buôn bán không được coi trọng, người ta cho rằng ở đời “Nhất
sĩ, nhì nông, công thương mạt nghệ”. Xã hội xem buôn bán, làm kinh tế là những
ngành nghề thấp hèn nhất trong xã hội, trọng kẻ làm việc bằng trí óc mà khinh
kẻ làm việc bằng chân tay. Người ta cho rằng người lao tâm là trị người ta mà
người lao lực thì người khác trị (lao tâm dã tự nhân, lao lực dã trị ư nhân).
Trước kia kẻ sĩ mở miệng ra là nói nhân nghĩa, đạo đức chứ không nói đến quyền
lợi. Quyền lợi kinh tế không được bàn bạc hoặc không thường trực trong suy nghĩ
của người quân tử. Dân khí đang suy nhược vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải
làm cho dân khí cường thịnh lên mà cơ sở của sự cường thịnh trước hết là tăng
trưởng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Phan Châu Trinh đã cổ vũ cho
việc phát triển, công (thủ công), thương nghiệp... cổ vũ cho việc phát triển
các ngành nghề truyền thống phục vụ nhân sinh và xuất khẩu. Đặc biệt, về thương
nghiệp, ông cổ vũ cho việc buôn bán lớn và dùng hàng nội hóa, mở rộng thương
trường trong nước, đẩy mạnh ngoại thương, nhất là lập các hội buôn.
2. Những bài học lịch sử
đối với công cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay
2.1. Bài học về chấn hưng ý
chí, khơi dậy sức mạnh dân tộc, tinh thần yêu nước và khát vọng phát triển
Công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đến nay đã trải qua hơn 35 năm. Trong hơn
35 năm đó, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo với nhiều đột phá: phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế... đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa. Đại hội XIII
của Đảng đã xác định mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”[1, tr.111]. Khát vọng phát triển đất nước là chính
đáng, vì lợi ích của toàn dân, từ đó đã đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới
phức tạp hơn, thách thức lớn hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục tăng cường đoàn kết, chung
sức, đồng lòng, đổi mới mạnh mẽ, năng động, sáng tạo, nỗ lực cao nhất để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2021-2025 và Chiến lược phát triển 10 năm 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII. Do vậy, chúng ta
cần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, vấn đề quan trọng cần tập trung đó là phát huy tối đa nguồn lực con
người. Đảng nhấn mạnh “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội
thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc,
niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí
tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển
quan trọng nhất của đất nước”[1, tr.116]. Việc phát huy giá
trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và hội nhập quốc tế chỉ thực sự thành công khi chúng ta tạo được môi
trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất. Đồng thời, trong phát huy tối đa
nguồn lực con người, phải thực sự lấy Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của
công cuộc đổi mới; phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ từ nhu cầu thực tiễn trong quá trình vận động và phát triển của
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Ý thức tự chủ, tự lực, tự
cường dân tộc có ý nghĩa rất quan trọng, thúc đẩy quá trình phát triển lịch sử
của dân tộc. Phan Châu Trinh đã từng viết rằng: “một chủng tộc muốn như chủng
tộc văn minh chỉ có tự lập tự cường”[2, tr.696]. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, ý thức
tự lực, tự cường là rất quan trọng, là cơ sở để chúng ta vươn lên hội nhập với
thế giới một cách chủ động. Ý thức tự lực, tự cường phải đồng bộ trên tất cả
các mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, lý luận... thì mới
đảm bảo phát triển bền vững. Ngoài ra, hội nhập, hợp tác là xu thế tất yếu của
thời đại, phải tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài nhằm phục vụ hiệu quả cho
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
2.2. Bài học về lấy dân làm
gốc
Sau hơn 35 năm đổi mới,
nhận thức về sức dân, về sức mạnh của lòng dân càng thêm sâu sắc hơn. Nền kinh
tế thị trường đã tạo nên những chủ thể lợi ích đa dạng. Trong cơ chế kinh tế
thị trường khắc nghiệt, và bối cảnh cải cách mở cửa ngày càng sâu rộng, chính
người dân đã đóng góp nhiều nhất và cũng hy sinh nhiều nhất cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cũng chính họ lại là tầng lớp đối mặt với
nhiều thách thức nhất. Để cải thiện tình hình này, người dân cần phải tập hợp
lại với nhau, xây dựng nên các tổ chức hợp tác đại diện cho quyền và lợi ích
của mình, phát huy vai trò là chủ thể trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước. Sự tham gia của người dân vào việc xây dựng các chương trình hành
động mang tính mục tiêu quốc gia được coi như nhân tố quan trọng, quyết định sự
thành bại của việc áp dụng phương pháp tiếp cận phát triển dựa vào nội lực và
do người dân làm chủ. Ví dụ cụ thể, khi tham gia vào quá trình xây dựng nông
thôn mới với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân tại các cộng đồng dân cư nông
thôn sẽ từng bước được tăng cường kỹ năng, năng lực về quản lý nhằm tận dụng
triệt để các nguồn lực tại chỗ. Khi xem xét quá trình tham gia của người dân
trong các hoạt động phát triển nông thôn, vai trò của người dân được thể hiện
trong phương châm dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân
quản lý và dân hưởng lợi. Như vậy, vai trò của người dân vẫn theo một trật tự
nhất định, các trật tự ở đây hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng “lấy dân
làm gốc”.
Thời gian qua, dịch bệnh
COVID-19 diễn biến rất phức tạp tại nhiều quốc gia trên thế giới, tác động tiêu
cực đến các nền kinh tế lớn cũng như nền kinh tế toàn cầu. Như nhiều quốc gia
khác, COVID-19 đã ảnh hưởng và tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, hoạt động thương mại, lao
động, việc làm và thu nhập của người lao động tại Việt Nam. Tuy nhiên, đứng
trước cú sốc này, ngoài việc Chính phủ đã nhanh chóng thực hiện các giải pháp
mạnh nhằm đạt mục tiêu kép, thì sự nỗ lực và ý chí quyết tâm, phát huy được sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả của
cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng ủng hộ của người dân, chúng ta đã từng bước
kiểm soát thành công đại dịch, phục hồi sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống,
góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, khẳng định bản
lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
2.3. Bài học về phát huy sức
mạnh của quần chúng nhân dân
Xét
trên quan điểm toàn diện, có thể hình dung khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh như ba cạnh của tam giác đều, đòi hỏi phải tiến hành đồng thời. Đặt chấn
dân khí trong mối quan hệ hữu cơ với khai dân trí và hậu dân sinh chính là hữu
hiệu nhất, là cách mà Phan Châu Trinh và các đồng chí của ông đã giúp đồng bào cả nước
cùng tỉnh ngộ về thực trạng dân khí của nước nhà. Thực tiễn và lý luận đã chứng
minh rằng, trải qua thăng trầm với những biến cố lịch sử, yếu tố quyết định vận
mệnh, quyết định sự phát triển của đất nước là Nhân dân, là lòng dân, là sức
dân. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân thì Đảng, Nhà nước cần
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thông qua sự tham gia của
người dân, chính phủ có thể tiếp nhận được nhiều thông tin, tri thức của cá
nhân và tổ chức làm cơ sở cho việc việc hoạch định, lựa chọn chính sách, góp
phần hạn chế sai lầm của chính sách và nâng cao chất lượng chính sách. Đồng
thời, sự tham gia của người dân góp phần thực thi chính sách hiệu quả. Nếu
không có sự thừa nhận, phối hợp và ủng hộ của người dân thì việc thực thi chính
sách của các cơ quan hành chính nhà nước không thể tiến hành thuận lợi. Nếu
trong quá trình chính sách, các cơ quan hành chính loại trừ sự tham gia của
người dân thì rất dễ gặp phải sự phản đối, bất hợp tác của người dân, từ đó làm
cho chi phí thực thi chính sách tăng lên. Còn nếu các cơ quan hành chính coi
trọng và phát huy sự tham gia của người dân thì sẽ nâng cao mức độ tiếp nhận
chính sách của người dân, từ đó nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Trong
giai đoạn hoạch định chính sách, việc thông qua các hình thức khác nhau để lắng
nghe ý kiến của người dân có thể làm cho chi phí hoạch định chính sách tăng lên,
nhưng khi thực thi chính sách sẽ giảm thiểu chi phí thực hiện do có sự ủng hộ
và hợp tác của người dân.
Việc mở rộng sự tham gia
của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý nhà nước
sẽ đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm sự tham gia của Nhân dân
vào công việc quản lý nhà nuớc đã được quy định khá cụ thể trong các văn bản
của Đảng và Nhà nước về hình thức, phương thức tham gia của nhân dân trong việc
quản lý, xây dựng các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người dân có thể tham
gia xây dựng các chính sách, pháp luật thông qua đại biểu trong các cơ quan đại
diện, các tổ chức chính trị - xã hội mà mình tham gia hoặc qua các phương tiện
thông tin đại chúng, nhưng cũng có thể quyết định trực tiếp các vấn đề ở tầm
quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, hoặc trực tiếp quyết định các
vấn đề ở cơ sở theo quy định của pháp luật. Sự tham gia của Nhân dân được thực
hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách: đề xuất sáng kiến ban đầu,
triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách. Tuy nhiên, tùy vào tính
chất của những chính sách cụ thể mà người dân có thể tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp, với mức độ khác
nhau. Phương thức, hình thức để người dân tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách, vào công việc quản lý của
Nhà nước đã được quy định
rõ. Nó cho phép người dân có thể biểu đạt được ý chí, nguyện vọng của mình với
các cơ quan nhà nước trong việc hình thành nên các chính sách, pháp luật cũng
như việc quyết định và thi hành pháp luật. Đây cũng là bước đi và cách làm phù
hợp để Việt Nam có những bước phát triển mới trong giai đoạn hội nhập như hiện
nay.
Kết luận
Nhìn chung, tư tưởng của
Phan Châu Trinh nói riêng và các nhà tư tưởng khác nói chung trong những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khai mở những vấn đề rất cơ bản về nhiệm vụ
cách mạng, vấn đề dân quyền, dân chủ, dân sinh, vai trò của nhân dân‥. Tư tưởng Phan Châu Trinh là ngọn đèn soi sáng, là sự thức
tỉnh cho dân tộc, hướng dân tộc bước ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế. Với
thời đại ấy, tư duy chính trị - xã hội của Phan Châu Trinh đã thể hiện một sự vượt trước,
một tầm nhìn xa, trông rộng, đúng xu thế vận động của lịch sử. Trong công cuộc
đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng của Phan Châu Trinh vẫn là những bài học có ý nghĩa thực tiễn, góp phần thực
hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới. Đồng thời, những bài học ấy trở thành tài sản
tinh thần quý giá, cần được bảo tồn và phát huy của dân tộc Việt Nam.