Đặt vấn đề
Hệ thống chính trị nói chung và bộ máy Nhà nước nói riêng vững mạnh và hoạt động
hiệu lực, hiệu quả hay không trước hết và cơ bản phụ thuộc vào chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý các cấp. Tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra những mục
tiêu rất lớn vào các năm 2025, 2030, và 2045[6, tr.36] để xây dựng một nước
Việt Nam cường thịnh, sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí
Minh hằng mong. Trong bối cảnh đặc biệt này, yêu cầu xây dựng được một chiến
lược cán bộ của Đảng để hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính
trị có đủ tài, đức đáp ứng yêu cầu ổn định chế độ chính trị và phát triển bền
vững đất nước đang là đòi hỏi bức thiết.
Trong
bối cảnh đó, việc tiến hành nghiên cứu các luận cứ lý thuyết và thực tiễn về
nhà lãnh đạo và phương thức lựa chọn người lãnh đạo, quản lý của các tổ chức
trong hệ thống chính trị; từ đó, góp phần giải bài toán về công tác cán bộ “lựa chọn người tài chứ không phải lựa chọn người nhà” như
nguyên Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đặt ra là một yêu cầu có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Bài viết này sẽ góp phần luận giải một số nội dung quan trọng nêu trên.
1. Bàn về nhà lãnh đạo
Nhà lãnh đạo
Trong tiếng Việt, khái niệm “lãnh
đạo” được sử dụng vừa để chỉ “nhà lãnh đạo” vừa để chỉ “sự lãnh đạo”. Cuốn Từ
điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ định nghĩa khái niệm “lãnh đạo” là: 1) (động
từ) Đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện. Ví dụ: Đảng
lãnh đạo cách mạng. Lãnh đạo quần chúng đấu tranh; 2) (danh từ) Cơ quan hoặc
người lãnh đạo, trong quan hệ với người được lãnh đạo.[10, tr.544].
Trong tiếng Anh “nhà lãnh đạo” và “lãnh đạo” được phân
biệt bởi 2 khái niệm với nội hàm khác nhau. Theo Từ điển Oxford, nhà lãnh đạo
(leader – danh từ) là người dẫn dắt một nhóm người, đặc biệt là người đứng đầu
một quốc gia hay một tổ chức... Cũng theo từ điển này, lãnh đạo (leadership –
danh từ) được định nghĩa: 1) tình trạng hay vị trí của một nhà lãnh đạo. 2)
năng lực để trở thành một nhà lãnh đạo hoặc phẩm chất một nhà lãnh đạo tốt cần
có[8].
Rõ ràng có mối quan hệ mật thiết giữa hai thuật ngữ nêu
trên, bởi lẽ “lãnh đạo” có thể được định nghĩa là năng lực của một nhà lãnh đạo
gây ảnh hưởng tới những người khác theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực; tuy
nhiên, giữa “nhà lãnh đạo” (leader) – người dẫn dắt/lãnh đạo ai hay một nhóm
người nào đó - và “lãnh đạo” (leadership) – vị trí hay phương pháp, cách thức,
năng lực mà những nhà lãnh đạo thực hiện sự lãnh đạo - không phải là hai khái
niệm đồng nhất. Đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa nhà lãnh đạo (leader) và sự
lãnh đạo (leadership) là sự khác biệt giữa con người và quá trình: Nhà lãnh đạo là những cá nhân được công nhận bởi các thành
viên của một nhóm/tổ chức vì nắm giữ một quyền lực hợp pháp hoặc là người có
khả năng gây ảnh hưởng trong một nhóm nhất định.
Sự lãnh đạo là quá trình mà các nhà lãnh
đạo tác động, gây ảnh hưởng lên nhóm/tổ chức để đạt mục tiêu của nhóm hay tổ
chức đó. Theo đó, nói một cách đơn giản, các nhà lãnh đạo (leaders) là những
người đảm trách công việc lãnh đạo (leadership).
Bourgon (1998) cho rằng, “Một nhà lãnh đạo là người hướng
dẫn những nỗ lực của một nhóm hướng tới một kết quả ngoài phạm vi hiện tại của
nó. Các nhà lãnh đạo không nhất
thiết là nhà quản lý - họ có thể đến từ bất cứ đâu trong tổ chức. Và không có
nhà lãnh đạo nào luôn dẫn đầu. Họ biết cách làm theo sự lãnh đạo của người khác
và dựa vào sức mạnh của người khác. Phẩm chất của con người - không phải vị trí
hoặc chức vụ - tạo ra một nhà lãnh đạo”[5, tr.23].
Các chuyên gia của tổ chức Liên hợp quốc đã xác định
các nhà lãnh đạo đích thực và hiệu quả cần phải thể hiện được những năng lực và
phẩm chất sau:
Một là, nhạy cảm với môi
trường (Environmental sensitivity): Các nhà lãnh đạo phải nhận thức
được cả môi trường bên trong và bên ngoài. Các nhà lãnh đạo cũng cần phải nhận
biết rõ về những tác động do môi trường thay đổi đối với tương lai của tổ chức.
Hai là, không ngừng chất vấn về tình trạng hiện tại
và "sự hiểu biết thông thường" (Constant interrogation of the status quo and “conventional
wisdom”): Các nhà lãnh đạo phải
chuẩn bị sẵn sàng để đặt câu hỏi về những gì hiện đang được chấp nhận là đúng
nhưng chưa được kiểm chứng, và tạo ra không gian trong tổ chức để khuyến khích
đối thoại về các quy tắc và hiện trạng của tổ chức.
Ba là, óc phán đoán và tầm nhìn chiến lược
(Prevision and strategic visioning): Các nhà lãnh đạo phải
phát triển và trình bày rõ tầm nhìn về tương lai. Trong việc sáng tạo và truyền
thông về tầm nhìn, đây cũng là một yêu cầu thiết yếu để cải thiện những chuẩn
mực hiện tại và khám phá "nơi mà chưa từng có ai đặt chân đến trước".
Bốn là, tập trung vào con người (Human/ people -focus):
Các nhà lãnh đạo phải tạo ra môi trường cho
phép mọi người khám phá những khả năng mới của mình và phát triển tiềm năng của
họ. Họ phải trân trọng giá trị và hỗ trợ mọi người. Điều này phải bao gồm ghi
nhận, khen thưởng và biểu dương những thành tựu mà những người khác đạt được.
Năm là, xây dựng quan hệ đối tác/liên minh
(Partnership/coalition building): Các nhà lãnh đạo cần thúc
đẩy sự tham gia của những người có nguồn lực, kiến thức và sự quan tâm chính
trị để làm cho mọi việc được diễn ra.
Sáu là, định hướng hiệu quả công việc và kết quả
(Performance and results-orientation): Các nhà lãnh đạo phải
bảo đảm sự liên kết giữa kết quả thực hiện nhiệm vụ với tầm nhìn. Các nhà lãnh
đạo phải thể hiện một định hướng hiệu quả thực hiện công việc.
Bảy là, thích ứng và khoan dung tính đa dạng và ý
kiến khác nhau (Accommodation and tolerance of diversity and dissent):
Các nhà lãnh đạo phải thể hiện các phong cách lãnh đạo có tính toàn diện và sử
dụng các kỹ năng, kiến thức và ý tưởng của tất cả mọi người. Họ phải có khả
năng hòa hợp các nền văn hoá, quan điểm, phong cách, lĩnh vực và ngành nghề
khác nhau.
Tám là, học hỏi không ngừng (Continuous learning):
Các nhà lãnh đạo phải là người đi học. Họ phải sẵn sàng lĩnh hội thông tin từ
bên ngoài khuôn khổ hiện tại và sẵn sàng tiếp nhận ý kiến phản hồi.
Chín là, xây dựng nhóm (Team-building):
Các nhà lãnh đạo phải xây dựng các nhóm hỗ trợ, sẵn sàng lựa chọn những người
tài năng nhất và hỗ trợ công việc của các nhóm.
Mười là, tinh thần doanh nhân và chấp nhận rủi ro
(Entrepreneurship and risk-taking): Sự biến chuyển và thay
đổi đã trở thành các chủ đề lãnh đạo chủ yếu do sự bất ổn của môi trường chúng
ta đang sống mang lại. Các nhà lãnh đạo phải sẵn sàng thử nghiệm và chấp nhận
rủi ro để thúc đẩy một môi trường trong đó những người khác nắm lấy những cách
thức mới trong xử lý công việc. Các nhà lãnh đạo cũng phải thể hiện được sức
mạnh cảm xúc để quản lý sự băn khoăn, lo lắng gây ra bởi sự thay đổi[9].
Nhà lãnh đạo công và nhà lãnh
đạo tư
Một cách phổ biến trên thế giới hiện nay, sự tổ chức
và vận hành của một quốc gia được phân định thành 2 khu vực tác động qua lại
lẫn nhau là khu vực công và khu vực tư[7, tr. 69-70]. Hai khu vực này được phân
định dựa trên sự khác biệt về chủ thể, nguồn lực và mục đích của các tổ chức.
Khu vực công được đại diện bởi chủ thể nhà nước, nắm giữ và sử dụng quyền lực,
tài sản, nhân lực công với mục tiêu cung ứng các hàng hóa và dịch vụ công, phục
vụ vì lợi ích chung của cộng đồng. Khu vực tư là khu vực không do sở hữu và
điều hành bởi nhà nước, được đại diện bởi các cá nhân và tổ chức theo đuổi lợi
ích của chính mình, chịu sự quản lý, điều tiết của khu vực công. Để tổ chức và
vận hành, cả hai khu vực này đều cần có sự điều hành của các nhà lãnh đạo, quản
lý. Theo cách tiếp cận này, nhà lãnh đạo công là những
người đảm trách công việc lãnh đạo ở khu vực công; nhà lãnh đạo tư là những
người đảm trách công việc lãnh đạo ở khu vực tư.
Điểm khác biệt cơ bản giữa nhà lãnh đạo công và nhà
lãnh đạo tư là ở chỗ: Nhà lãnh đạo tư chỉ tập trung theo đuổi lợi ích của tổ
chức mà họ chịu trách nhiệm dẫn dắt. Một nhà lãnh đạo trong khu vực công phải
đại diện cho tổ chức mà mình đứng đầu cả với những lợi ích bên ngoài tổ chức,
và kết hợp các lợi ích đa nguyên này vào trong một tầm nhìn. Những người bị tác
động bởi nhà lãnh đạo công không chỉ là cấp dưới, mà còn cả các nhóm lợi ích
khác như người dân, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ... những chủ thể đều có
những ý tưởng và mong đợi khác nhau đối với nhà lãnh đạo công. Chính vì vậy,
đặc điểm về vị trí, vai trò của các nhà lãnh đạo công được quy định bởi những
điểm khác biệt cơ bản về mục tiêu và triết lý tổ chức giữa các tổ chức công
(public organizations) và tổ chức tư (private organizations), thể hiện trên các
điểm sau:
Thứ nhất và trước hết, các tổ chức công vận hành vì
những lợi ích công (public interests) thay vì những lợi ích tư (private
interests) mà các tổ chức tư theo đuổi, vì vậy các nhà lãnh đạo công nhất thiết
phải cân nhắc đến một hệ quy tắc và giá trị rộng lớn hơn khu vực tư. Rất nhiều
sự toan tính phải được đưa lên bàn cân để so sánh với nhau một cách dân chủ,
hợp hiến và phù hợp với lợi ích xã hội. Đây là một đòi hỏi trách nhiệm nặng nề
hơn rất nhiều giữa nhà lãnh đạo công và nhà lãnh đạo tư.
Thứ hai, những nhà lãnh đạo trong các tổ chức công
phải chịu trách nhiệm giải trình trước nhân dân và những cử tri đã bầu ra mình
hơn là những nhóm lợi ích như đối với các nhà lãnh đạo khu vực tư.
Thứ ba, các tổ chức công đòi hỏi cao hơn về tính mở,
tính minh bạch, đối xử công bằng, bình đẳng và tính có thể dự đoán được so với
khu vực tư.
Một cách khái quát, những nhà lãnh đạo công giữ vị trí
trong những tổ chức với nhiệm vụ chính trị trọng yếu là phục vụ nhân dân. Thực
hiện nhiệm vụ này, các nhà lãnh đạo công phải dẫn dắt các tổ chức công do mình
đứng đầu đáp ứng một loạt các mục tiêu phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội
và môi trường nhằm đạt được mục tiêu chính là tăng cường hoặc duy trì sự thịnh
vượng của người dân chứ không phải mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Việc theo
đuổi những mục tiêu công này được thúc ép bởi cả những nhu cầu từ bên trong và
bên ngoài tổ chức, cũng như những đòi hỏi đến từ khu vực tư. Tất cả những điều
này đều ảnh hưởng đến cách thức lãnh đạo và quản trị của các nhà lãnh đạo trong
hệ thống chính trị với những yêu cầu về tính toàn diện, tính mở, dân chủ, minh
bạch, công bằng, bình đẳng, có thể đoán định và trách nhiệm giải trình trước
nhân dân.
Quan niệm về nhà lãnh
đạo công ở Việt Nam hiện nay
So với nhiều quốc gia trên thế giới, khu vực công ở
Việt Nam rộng lớn hơn, không chỉ là các tổ chức Nhà nước mà còn bao gồm các tổ
chức của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, hợp thành hệ thống chính trị ở
nước ta và đều hoạt động dựa vào nguồn ngân sách nhà nước. Vì vậy, ngoại diên
của khái niệm lãnh đạo công ở Việt Nam cũng được mở rộng hơn. Ở nước ta, nhà
lãnh đạo công được thể thể hiện trong hai khái niệm cán bộ lãnh đạo và cán bộ
quản lý, và thường được gộp vào làm một thành cán bộ lãnh đạo, quản lý[ 11, tr.16-17]. Điểm
chung cơ bản mà hai khái niệm này phản ánh là họ đều có chức năng và thẩm quyền
quản lý nhân sự, tập thể do họ phụ trách trong quá trình thực hiện công việc và
đạt tới mục tiêu của tổ chức. Cán bộ lãnh đạolà người quản lý đứng đầu một tổ chức, là người thực hiện
tất cả các chức năng của một chủ thể quản lý (hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm tra) và là người chịu trách nhiệm đầy đủ, toàn diện đối với toàn bộ hoạt
động của tổ chức đó. Cán bộ quản lý là người làm công tác quản lý, có chức danh
và nằm trong hệ thống bộ máy quản lý của một tổ chức[11, tr.21; 7, tr. 50-51].
Tùy thuộc vào căn cứ xem xét, nhà lãnh đạo công ở Việt
Nam hiện nay có thể được phân thành các nhóm sau:
Căn cứ vào cơ cấu của hệ thống chính trị,đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta được chia thành ba
khối lớn: hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội.
Trong các cơ quan Nhà nước lại được chia thành các khối: lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Căn cứ vào sự phân cấp của hệ thống chính trị, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý được chia làm bốn cấp theo thứ tự: (1) Trung ương, (2)
tỉnh - thành phố, (3) quận huyện - thị xã và (4) cấp cơ sở: xã, phường, thị
trấn.
Căn cứ theo đối tượng và lĩnh vực công tác, cán bộ
lãnh đạo, quản lý đượcphân thành bốn
loại chính: (1) Cán bộ Đảng, Nhà nước và đoàn thể, (2) Cán bộ lực lượng vũ
trang, (3) Cán bộ khoa học, (4) Cán bộ quản lý kinh doanh.
2. Bàn về phương thức lựa
chọn nhà lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Phương thức lựa chọn người lãnh đạo trong hệ thống
chính trị
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này, phương thức
lựa chọn người lãnh đạo trong hệ thống chính trị được hiểu là tổng hợp các cách
thức và phương pháp được dùng để quyết định chọn ra từ nguồn nhân sự có sẵn
những cá nhân có khả năng dẫn dắt, gây ảnh hưởng đến những người còn lại trong
các tổ chức của hệ thống chính trị nhằm đạt được mục tiêu ổn định và phát triển
bền vững đất nước.
Từ quan niệm về nhà lãnh đạo, nhà
lãnh đạo công và phương thức lựa chọn nhà lãnh đạo trong hệ thống chính trị như
đã nêu, cho thấy phương thức lựa chọn nhà lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay để đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước phải chọn ra
những nhà lãnh đạo đích thực do năng lực, trí tuệ và phẩm chất của họ mang lại.
Theo cách tiếp cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là việc lựa chọn đúng những
người có đủ đức, đủ tài, vừa hồng, vừa chuyên; và đã được Đảng cụ thể hóa thành
những quy định cụ thể[ 1, 3, 4].
Mối quan hệ giữa phương thức
lựa chọn nhà lãnh đạo với việc hình thành đội ngũ lãnh đạo đủ tài năng và phẩm
chất lãnh đạo đất nước
Phương thức (cách thức và phương
pháp) lựa chọn khoa học và phù hợp sẽ quyết định việc lựa chọn đúng người có đủ
năng lực và phẩm chất vào vị trí lãnh đạo. Đây là lẽ tất yếu bởi không thể đạt
được một kết quả tốt dựa trên một phương pháp sai lầm. Về mặt lý thuyết, giữa
phương thức lựa chọn nhà lãnh đạo và chất lượng nhà lãnh đạo có mối quan hệ
biện chứng sâu sắc. Xem xét mối quan hệ này từ góc độ tiếp cận triết học thì
đây là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Theo cách
tiếp cận này, phương thức lựa chọn nhà lãnh đạo với tư cách là nguyên
nhân sẽ quyết định chất lượng nhà lãnh đạo về năng lực và phẩm chất với tư cách
là kết quả tương ứng.
Về
mặt thực tiễn, công tác cán bộ ở nước ta cho thấy rõ biểu hiện thực tế của mối
quan hệ này. Khi mà phương thức lựa chọn cán bộ lãnh đạo ở bất cứ giai đoạn
nào, cấp nào, địa phương, đơn vị nào mà thiếu tính dân chủ, công khai, minh
bạch, khách quan, tính mở, tính cạnh tranh và trách nhiệm giải trình[2] thì một cách tương ứng đã để lọt một bộ phận những
cá nhân không đủ tài năng và đức độ, phẩm chất và năng lực vào bộ máy lãnh đạo
đất nước và gây ra những hậu quả nghiệm trọng về kinh tế, xã hội; đặc biệt nguy
hại hơn là làm xói mòn niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị - một nguy
cơ tiềm ẩn dẫn tới sự mất ổn định và kìm hãm sự phát triển của đất nước. Những
sự việc xảy ra thời gian qua ở Bộ Công thương, Bộ Y tế và một số địa phương
trên cả nước đã cho thấy rõ điều này.
Đề xuất mô hình lựa chọn người
lãnh đạo trong hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển bền
vững đất nước
Từ những phân tích nêu
trên, chúng tôi đề xuất mô hình lựa chọn người lãnh đạo trong hệ thống chính
trị ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước như sau: