Ảnh minh họa
Với mưu đồ
phá hoại, từ lâu các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò
chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành
quả cách mạng. Trong số đó, có những quan điểm cho rằng, chủ nghĩa xã hội
(CNXH) là nghèo khổ vì “chủ nghĩa Mác - Lênin dị ứng với sự giàu có”; rằng Việt
Nam “không chịu phát triển”, “không thể phát triển” bởi Việt Nam “lạc nhịp” với
thế giới, “sa lầy trong tư duy” về chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH. Theo đó, họ
rêu rao, Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN)(1). Đáng tiếc, những quan
điểm, luận điệu như vậy vẫn được một số người, trong đó có những trí thức có
học hàm, học vị ở trong nước cổ súy.
Thực ra, cả
lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều
bác bỏ những quan điểm nói trên.
Thứ nhất, về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác -
Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ:
“Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm
xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch
lao động của người khác”(1). Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công
khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có,
thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và
lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số
ít người”(2). Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản (xã
hội XHCN) không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”(3)…
V.I.Lênin
viết: “Xét đến cùng,
thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế
độ mới”(4).Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng,
giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư
bản (CNTB) chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Đây là
chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ
lên CNXH. Theo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán,
học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi
thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn
công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình
“bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng
tri thức mà nhân loại đã tạo ra”(5); phải “dùng cả hai
tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”(6); phải “đưa chủ
nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”(7)...
Vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã
hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ
nghĩa xã hội”(8); “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được
ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì
được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”(9).
Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng
viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”(10)…
Như vậy,
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là xã hội
giàu có về mọi phương diện và giàu có cho số đông, hơn hẳn CNTB và là sự thay
thế hợp quy luật đối với CNTB. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chủ
trương xóa áp bức, bóc lột, lạc hậu, bất công, nghèo khổ chứ
không hề dị ứng với giàu có, thịnh vượng, không hề chủ trương “xóa giàu” như một
số người lầm tưởng, suy diễn, xuyên tạc.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, Liên Xô và nhiều nước XHCN
trước đây đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và chứng minh rằng, giàu có, thịnh
vượng cho đất nước và đông đảo nhân dân không chỉ là mơ ước, lý tưởng, khát
vọng cháy bỏng; không chỉ là chủ trương, chính sách của các Đảng Cộng sản, của
các Nhà nước XHCN mà đã từng là hiện thực lịch sử sinh động ở
một số quốc gia.
Sau cách
mạng Tháng Mười năm 1917, từ đống đổ nát bởi chiến tranh, với một nền kinh tế
kiệt quệ, đầy tàn tích nông nô, nước Nga Xô viết (từ 1922 là Liên Xô) đã nhanh
chóng vươn lên thành cường quốc. Đến năm 1932, Liên Xô trở thành nước công
nghiệp, trong đó, sản phẩm công nghiệp chiếm 70,7% tổng sản phẩm nền kinh tế
quốc dân. Trong 5 năm (1927-1932), thu nhập quốc dân tăng 85%; chi phí của Nhà
nước về bảo hiểm xã hội và y tế tăng 4 lần; ngày làm việc của công nhân giảm
xuống 7h/ngày; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, 98% trẻ em từ 8-11 tuổi đã
được cắp sách đến trường; nạn mù chữ đã được thanh toán; đại đa số người lớn
biết đọc, biết viết(11). Sau chiến tranh thế giới II, một số nước
XHCN ra đời và cũng có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng.
Đến năm
1970, chỉ tính riêng các nước XHCN ở châu Âu đã chiếm 40% sản lượng công nghiệp
thế giới, 1/3 giá trị xuất khẩu toàn thế giới; 4 nước XHCN được xếp trong số 20
nước phát triển của thế giới là Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân
dân Ba Lan, Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc; Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường
của thế giới (Xô - Mỹ)(12). Liên Xô và các nước XHCN không chỉ có
tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp nhanh, không chỉ đạt nhiều thành tựu về
khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật mà còn thực thi hệ thống chính sách
xã hội tất cả vì con người, nhất là chính sách về lao động, việc
làm cho mọi người; chính sách giáo dục, y tế không mất tiền; chính sách ưu tiên
đối với trẻ em, phụ nữ, người già và dân tộc thiểu số... Những ưu việt này
không chỉ đem lại sự thụ hưởng hạnh phúc cho nhân dân các nước XHCN mà còn là
mục tiêu hấp dẫn, vẫy gọi đấu tranh đối với công nhân, lao động trên thế giới.
Trước áp lực đấu tranh của người lao động, các chính đảng và nhà nước tư sản
buộc phải điều chỉnh chủ trương, chính sách kinh tế xã hội theo
hướng coi trọng hơn các phúc lợi xã hội…
Cần nói
thêm rằng, Liên Xô và các nước XHCN đi lên từ điểm xuất phát thấp, xây
dựng CNXH trong sự bao vây, chống phá điên cuồng của thế giới tư bản
nhưng nhờ vào trí tuệ, ý chí, sự nỗ lực sáng tạo của đông đảo công nhân lao
động trong tư cách, vị thế, niềm tin của những người làm chủ xã hội mà có được
sự phát triển nhanh chóng và đạt được những thành quả vĩ đại. Cho dù, vì nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do những người lãnh đạo cao nhất trong bộ
máy đảng, nhà nước XHCN xa rời, thậm chí từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, phản
bội CNXH khiến từ cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX, Liên Xô tan
rã, chế độ XHCN ở Đông Âu thất bại thì cũng không thể phủ nhận sự thật
lịch sử là chính chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH, chứ không phải CNTB đã
từng đưa một số quốc gia dân tộc vượt qua lạc hậu, vươn lên phát
triển, giàu mạnh; đưa Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường của thế giới.
Qua 30 năm, kể từ khi Liên Xô tan rã, đến nay vẫn chưa thấy khả
năng nước Nga và các quốc gia, dân tộc tư bản trong không gian Liên Xô
cũ tìm lại, phục hưng được vị trí siêu cường thế giới như thời
Liên Xô. Một số nước trong không gian Liên Xô cũ đã và đang rơi vào cảnh trì
trệ, bất ổn, xung đột...
Trong khi
đó, cũng lâm vào trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội, cũng đi vào
cải cách, mở cửa, đổi mới như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, nhưng một số
nước khác, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam lại thành công. Một trong những
bí quyết đem lại thành công là kiên định mục tiêu, kiên trì con đường XHCN,
kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên trì sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thứ ba, trong tư duy, nhận thức của một số
người, ta - CNXH là nghèo nàn, lạc hậu, còn tư bản, nước ngoài
là văn minh, giàu có. Sự thật không phải như vậy. Nước ngoài là nước khác,
không phải nước ta. Nước ngoài cũng có nước tư bản, có nước XHCN, có nước giàu,
nước nghèo. Trong số gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, tuyệt
đại đa số đang theo chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tuy nhiên, không phải
tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ TBCN đều phát triển,
giàu có, thịnh vượng. Trong hơn 190 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế
độ TBCN thì đa số là các nước chưa phát triển, đang phát triển,
nghèo, kém phát triển và không ít nước có bất ổn về chính trị xã hội. Số liệu
thống kê, tổng hợp năm 2018 cho thấy, 10 nước nghèo đói nhất thế giới đều là
những nước theo chế độ tư bản ở châu Phi và 50 quốc gia nghèo nhất thế giới
cũng đều là các nước theo chế độ tư bản.
Một số
nước tư bản được xem là giàu có, văn minh bậc nhất thế giới thì chính họ đồng
thời cũng là những quốc gia đã và đang tiếp
tục gây ra cho nhân loại rất nhiều tai họa. Hơn nữa, trong chính những nước
này, sự giàu có không phải cho số đông mà chỉ dành cho số ít và sự phân hóa
giàu nghèo là rất khủng khiếp. Có khu vực,
1% người sở hữu 99% tài sản và 99% người chỉ sở hữu 1% tài sản. Mười năm trước,
sự phân hóa ấy bùng phát thành phong trào “Chiếm lấy phố Wall” ở Mỹ và lan ra
nhiều nước khác(13). Tại khu vực Mỹ la tinh, nơi nhiều nước từng là “sân sau” của CNTB, trong vài thập kỷ gần đây đã liên tục trỗi
dậy, tẩy chay CNTB và bước đầu tìm kiếm,
thử nghiệm con đường, mô hình phát triển mới - con đường, mô hình
“CNXH thế kỷ XXI”.
Còn ở một số nước tư bản được xem là giàu có và văn minh khác, nhất là các
nước Bắc Âu, với vai trò cầm quyền, chi phối của các đảng xã hội dân chủ thì ở
đó, không chỉ có các nhân tố tư bản mà còn có các nhân tố có tính chất
XHCN mới làm nên giá trị phát triển của những nước này. Ngay từ năm 1847,
trong Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen viết, những
người XHCN dân chủ “đi theo cùng con đường với những
người cộng sản”, họ muốn thực hiện một phần những biện pháp cách mạng,
“nhưng không coi đó là những biện pháp quá độ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản, mà
coi đó là những biện pháp đầy đủ để xóa bỏ cảnh nghèo nàn và những tai họa của
xã hội hiện nay”(14). Tuy nhiên, thực tế các
nước Bắc Âu cũng đang nảy sinh những giới hạn, mâu thuẫn. Việc đánh thuế cao để
có phúc lợi cao khiến các nhà đầu tư giảm động lực, nhiều người di chuyển tư
bản sang nước có thuế thu nhập thấp hơn để tăng thêm sự giàu có cho riêng họ.
Ngược lại, phúc lợi xã hội cao cũng làm cho người lao động trở nên ỷ lại, trông
chờ, dựa dẫm vào nhà nước(15)...
Do đó,
việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta lựa chọn quá độ lên CNXH, bỏ
qua chế độ TBCN, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là
hoàn toàn đúng đắn. Tất nhiên, trong khi chọn lọc kế thừa những thành tựu, giá
trị văn minh, tiến bộ mà nhân loại đạt được dưới CNTB, chúng ta phải dứt
khoát bỏ qua những thói hư tật xấu, bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc
lột TBCN và phải tỉnh táo, phê phán, bác bỏ những nhận thức ảo tưởng, mơ
hồ, những luận điệu ca ngợi một chiều CNTB(16).
Thứ tư, cần nhắc lại rằng, cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, nước Việt Nam không còn tên trên bản đồ thế giới. Đất nước bị thực dân
Pháp xâm lược, đô hộ, chia cắt, nhân dân lầm than, đói nghèo, cực khổ. Ngay từ
đầu, các tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước, yêu hòa bình đã đứng dậy chống
thực dân Pháp xâm lược dưới những ngọn cờ khác nhau, trong đó có cả ngọn cờ dân
chủ tư sản. Tuy nhiên, tất cả đều dẫn đến kết cục thất bại, bế tắc. Cuối cùng,
lối thoát để cứu nước, cứu dân được tìm thấy bởi Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử đặt ra yêu cầu; lịch sử tạo ra điều
kiện, tiền đề và biện pháp, con đường và lực lượng để tổ chức, lãnh đạo giải
quyết những yêu cầu đó. Lịch sử đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam với con
đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, con đường cách mạng vô sản theo
tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, con đường cách mạng được soi sáng
bởi chủ nghĩa Mác-Lênin - học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất”.
Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng
XHCN, tuy mỗi thời kỳ, giai đoạn có những chính sách, biện pháp khác nhau
(trong đó không tránh khỏi có cả những sai lầm, khuyết điểm) nhưng điểm nhất
quán là Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xóa đói nghèo, lạc hậu, áp bức, bóc
lột, bất công và hướng tới xây dựng nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Trong thời
kỳ đổi mới, cùng với việc xác định “dân giàu”, “nước mạnh” là những mục tiêu
hàng đầu trong hệ mục tiêu của CNXH ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã
đưa ra nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn và hệ thống chính sách, pháp luật
phù hợp để từng bước thực hiện “dân giàu”, “nước mạnh”… Đó là phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, “phát huy khả năng của mọi thành phần kinh
tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định
trong xã hội nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa
khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói,
giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội...”(17).
Ảnh minh họa
Theo tinh
thần đó, trong hơn 35 năm đổi mới, với sự nỗ lực của các thành phần kinh tế, xã
hội, sự đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, “đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so
với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt(18). Công tác xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật
được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao... Việt Nam là một trong
16 nền kinh tế mới nổi thành công và là 1 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế
giới(19). Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”(20). Đây là
điều kiện, tiền đề, là động lực, niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta xác định yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, với ý chí, khát vọng quyết tâm mạnh mẽ
hơn để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
theo lộ trình đến năm 2025, năm 2030 và năm 2045(21).
Những
thành quả cách mạng và triển vọng tốt đẹp của đất nước luôn gắn liền với sự
kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và CNXH, sự kiên định
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với
yêu cầu của đất nước và xu thế thời đại. Thực tế lịch sử đó hoàn toàn bác bỏ
nhận thức cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH cản trở, kìm hãm sự
phát triển của đất nước.
Thứ năm, hiện nay, đúng là nước ta mới ra khỏi tình
trạng nước nghèo, kém phát triển để trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình thấp. Nước ta vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Từ
góc độ của chủ đề bài viết, có thể nêu một số nguyên nhân như:
1) Thực
hiện quá độ lên CNXH từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, một nền
nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, lực lượng sản xuất rất thấp.
Trong khi
ở nhiều nước phát triển trên thế giới, giai cấp tư sản dân tộc là người tổ
chức, lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và giải phóng dân tộc thì ở
nước ta, giai cấp tư sản dân tộc ra đời muộn, bị thực dân, đế quốc chèn ép, mặc
dù cũng rất yêu nước, anh dũng nhưng nhỏ yếu về tiềm lực kinh tế, chính trị…
nên tư sản dân tộc không đảm đương được những nhiệm vụ lịch sử nặng nề ấy. Và
sự vận động của lịch sử dân tộc đã tạo ra điều kiện, tiền đề để giai cấp công
nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam gánh vác sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức thực thi
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước… Như vậy, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam không những không
được thừa kế di sản công nghiệp hiện đại (các cơ sở công nghiệp do thực dân, đế
quốc để lại chủ yếu là trình độ lạc hậu và bị phá hủy nhiều) mà còn phải tự
mình lãnh đạo, tổ chức thực thi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
2) Đất
nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, dai dẳng.
Sau năm
1975, cả nước thống nhất quá độ lên CNXH, nhưng tiếp đó đất nước lại phải
tiếp tục gồng mình, dốc sức, đương đầu với hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
ở hai đầu biên giới mà độ ác liệt, tàn khốc và hậu quả của nó cũng không thua
kém gì so với hai cuộc kháng chiến trường kỳ trước đó. Do đó, về cơ bản, thời
gian chúng ta có hòa bình để phát triển cũng chưa đầy 40 năm. Theo dự tính,
phải hơn 100 năm nữa chúng ta mới có thể rà phá, xử lý hết bom mìn sót
lại; hàng triệu người tàn tật, nạn nhân chiến tranh; những vết thương nhức nhối
chia cắt, ly tán… về tình cảm, chính trị… vốn đã không dễ xoa dịu, hàn gắn lại
thường bị các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, kích động, chống
phá… Sau khi kết thúc chiến tranh, đất nước ta lại tiếp tục phải đương đầu
với chính sách bao vây, cấm vận rất phản động và vô nhân đạo kéo dài của các
thế lực tư bản, đế quốc và hiện nay các thế lực thù địch, phản động vẫn thường
xuyên sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn để chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp
đổi mới, phát triển theo định hướng XHCN của nhân dân ta…
3) Những
điểm yếu tâm lý tiểu nông cùng với tàn dư của chế độ thực dân, phong
kiến, đế quốc kết hợp với mặt trái của kinh tế thị trường gây ra những ảnh
hưởng, tác động sâu sắc đến tâm lý, nhận thức, hành vi về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, đạo đức, thói quen, lối sống của con người hiện tại, kể cả với
đội ngũ doanh nhân và cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong đó có những biểu hiện của
tư duy cào bằng, xem nhẹ kinh doanh buôn bán, “phép vua thua lệ làng”, “một
người làm quan cả họ được nhờ”, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, làm ăn
nhỏ lẻ, chụp giật, thiếu tầm nhìn xa, vừa ỷ lại, trông chờ vào nhà nước và xã
hội…
4) Làm giàu để có cuộc sống vật chất sung túc và tinh thần phong phú
là nhu cầu, ước vọng của toàn nhân loại nhưng ước vọng đó luôn bị quy định,
giới hạn bởi các điều kiện lịch sử xã hội. Thực tế cho thấy, từ góc độ cá nhân
cũng như quốc gia, dân tộc, quá trình hiện thực hóa khát vọng chính đáng ấy,
thất bại vẫn dễ hơn và nhiều hơn thành công. Từng cá nhân làm giàu
đã rất khó, làm giàu cho nhiều người, cho hàng trăm triệu người thì lại vạn lần
khó khăn hơn(22), nhất là từ nền nông nghiệp lạc hậu, từ chiến
tranh, đổ nát đi lên trong sự bao vây, chống phá của các thế lực phản động, thù
địch…
Về phía chủ quan, trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN,
Đảng ta cũng đã không tránh khỏi có những sai lầm, khuyết điểm, nhất là khoảng
thời gian 10 năm đầu cả nước thống nhất quá độ lên CNXH, như có biểu hiện
duy ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN, nhấn mạnh tính chất XHCN của quan hệ
sản xuất trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn đa dạng và cơ bản là thấp;
nhấn mạnh quá mức việc phát triển công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản
lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp… Thực ra, những sai lầm, khuyết điểm
này là biểu hiện của sự nhận thức phiến diện, không đầy đủ, thiếu sâu sắc về
bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng đã nhận ra điều đó và “nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết
điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên”(23). Thành quả to lớn có ý
nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới đất nước là minh chứng sống động khẳng
định trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng; khẳng định vai trò của việc
kiên định, nắm vững và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để Đảng tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo nhân dân vững bước trên
con đường XHCN.
Từ những lý giải, phân tích trên đây cho thấy, các quan
điểm cho rằng: CNXH là
nghèo khổ, chủ nghĩa Mác-Lênin “dị ứng với sự giàu có”; và Việt Nam muốn
giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường
XHCN...(!) là những quan điểm sai trái cả về lý luận và thực
tiễn. Do đó, cần khẳng định rằng, muốn
đất nước giàu có, thịnh vượng, không những phải “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên
tắc xây dựng Đảng để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”(24); không những phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ
các nguồn lực, trí tuệ, sự thông minh, sáng tạo, ý chí, khát vọng của con người
Việt Nam để chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, làm giàu cho bản thân, gia đình và
góp phần xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; mà đồng
thời, còn phải chủ động đấu tranh, uốn nắn, phê phán, bác bỏ những nhận
thức lệch lạc, sai trái bởi nó cũng là một trong những lực cản vô hình nguy
hiểm không thể xem thường trên con đường đi tới giàu có, thịnh vượng
của dân tộc Việt Nam./.
(Nguồn: tuyengiao.vn)
_________________________
(1) (14)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995,
t.4, tr.618, 478.
(2) C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.286.
(3) C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.35.
(4) V.I.Lênin : Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.39, tr.25.
(5)
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.41,
tr.362.
(6)
V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.684.
(7) V.I.Lênin: Toàn
tập, Sđd, t.45, tr.358.
(8) (9) Hồ
Chí Minh: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011,
t.13, tr.438, 5.
(10) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.614.
(11)
Nguyễn Anh Thái (Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo
dục, H, 2005, tr.55.
(12)
Nguyễn Ngọc Long: Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của
chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009,
tr.103.
(13)
(16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb.Chính trị
quốc gia, H, 2022, tr.21,25.
(15) Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính
trị CNXHkhoa học, Nxb.Lý luận chính trị, H, 2018,
tr.147-148.
(17) Đảng
Cộng sản Việt Nam: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H,
2015, t.55, tr.360.
(18) (20)
(21) (24) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I,
tr.103-104,104,112,109.
(19)
Nguyễn Minh Phong- Nguyễn Trần Minh Trí: Vị thế và cơ đồ kinh tế
Việt Nam, https://nhandan.vn/nhan-dinh/vi-the-va-co-do-kinh-te-viet-nam-631311/.
(22)
Nguyễn Anh Tuấn: Nội dung và giải pháp thực hiện “dân giàu” trong tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay,Tạp chí Lý luận chính
trị & Truyền thông, số 4/2018, tr.16-21.
(23) Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.64.