Đặt vấn đề
Giai đoạn 1954-1964 là mười năm đầu miền Bắc được giải
phóng. Trong điều kiện bộn bề khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đạt nhiều kết quả nổi bật. Đóng góp vào
thành công chung đó, công tác xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng cũng đã mang
lại nhiều kết quả tích cực và để lại một số kinh nghiệm sâu sắc. Bởi lẽ đó,
nghiên cứu sự lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng giai đoạn 1954-1964
là rất có ý nghĩa, từ đó rút ra những kinh nghiệm và vận dụng vào quá trình
tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác này trong bối cảnh hiện nay.
1. Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí
thức ở miền Bắc giai đoạn 1954-1964
Miền Bắc những năm 1954-1964 có những điểm nổi bật, tác
động tới công cuộc lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng nói chung, và
công tác xây dựng đội ngũ trí thức nói riêng. Sau ngày hòa bình lập lại, kinh
tế miền Bắc manh mún, quy mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động và sản lượng thấp
kém. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật của miền Bắc vừa ít về số lượng, vừa
hạn chế về năng lực và kinh nghiệm điều hành, quản lý kinh tế. Miền bắc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xuất phát điểm thấp, đồng thời phải thực
hiện nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam, và thực hiện
nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Như vậy, bối cảnh và nhiệm vụ của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc đặt ra yêu cầu cấp bách trong xây dựng nguồn nhân lực
có trình độ, vừa phải nhanh chóng “khỏa lấp” sự thiếu hụt, vừa đáp ứng những
yêu cầu công tác mới. Nhận thức rõ điều này, Trung ương Đảng đã sớm có chủ
trương xây dựng đội ngũ trí thức. Một trong những văn kiện thể hiện rõ nhất
quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức ở miền Bắc của Đảng giai đoạn này là Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam với trí thức (tháng
8-1957). Đây là lần đầu tiên Đảng có một chính sách riêng, xác định vị trí của
trí thức và xác định nhiệm vụ của các cấp ủy đảng đối với việc xây dựng đội ngũ
trí thức. Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam với trí thức
đã nhấn mạnh: “Đảng rất quý mến trí
thức và hết lòng, hết sức tạo điều kiện cho trí thức công tác và học tập, phát
huy tài năng của mình để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày thêm đắc lực và
trở thành những người trí thức chân chính của chế độ ta, những người trí thức
xã hội chủ nghĩa”[1, tr.8].
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (11-1958), Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: “Công cuộc phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân đòi hỏi phải có một
đội ngũ cán bộ cần thiết, chất lượng tốt, trung thành với sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa... cần phải thi hành mọi biện pháp để tăng thêm số lượng và
nâng cao trình độ các cán bộ kinh tế, kỹ thuật, nghiên cứu khoa học”[2, tr.501].
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, Hội nghị Trung ương 7 khóa
III (6-1962) của Đảng chủ trương: “đào
tạo cán bộ cơ khí, điện lực, luyện kim, hóa chất, cán bộ thiết kế xây dựng, cán
bộ nghiên cứu và giảng dạy... Đặc biệt quan tâm bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và
quản lý ở các ngành kinh tế và các cơ sở sản xuất”[3, tr.357]. Cùng với đó,
là chủ trương: “Chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ văn hoá, thông tin, văn nghệ về chính trị, nghiệp vụ, nghệ thuật
để nâng cao từng bước chất lượng công tác, góp phần làm cho đời sống tinh thần
của nhân dân ngày càng phong phú, tươi vui”[3,
tr.492].
Cụ thể hóa chủ trương xây dựng, phát triển đội ngũ trí
thức, Trung ương Đảng đã ban hành hàng loạt Chỉ thị về tăng cường công tác quản
lý, lãnh đạo đội ngũ trí thức trên phương diện chính trị, tư tưởng, văn học -
nghệ thuật như: Chỉ thị số 85-CT/TW ngày 24-5-1958 Về kế hoạch
học tập lý luận chính trị Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên trong năm 1958;
Chỉ thị số 110-CT/TW ngày 21-10-1958 Về việc tổ chức cho các
giáo sư, giảng viên, cán bộ, sinh viên các trường đại học và học sinh các
trường chuyên nghiệp trung cấp đi tham gia lao động sản xuất; Chỉ
thị số 125-CT/TW ngày 30-1-1959 Về việc chấn chỉnh công
tác giáo dục chính trị trong nhà trường phổ thông (cấp II và cấp III);
Chỉ thị số 146-CT/TW ngày 4-7-1959 Về kế hoạch chỉnh huấn cán
bộ, đảng viên;...
Trong công tác quản lý, nhiều
cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý đội ngũ trí thức trên các lĩnh vực tư tưởng,
chính trị và chuyên môn được thành lập. Điển hình là sự ra đời của Ủy ban Khoa
học Nhà nước (ngày 4-3-1959). Trách nhiệm và quyền hạn ngang các Bộ, Ủy ban
Khoa học Nhà nước giúp Chính phủ xây dựng và lãnh đạo công tác khoa học về mọi
mặt. Việc thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước thời điểm này có ý nghĩa quan
trọng, vừa đáp ứng nguyện vọng đông đảo trí thức, vừa động viên và cổ vũ rất
lớn đối với đội ngũ trí thức ở miền Bắc trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Về hoạt động tôn vinh và những
chính sách hỗ trợ, khuyến khích, để kịp
thời động viên đội ngũ trí thức cao cấp cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp kiến
thiết đất nước, năm 1955, Nhà nước tổ chức đợt phong hàm giáo sư đầu tiên nhằm
tôn vinh cán bộ giảng dạy ở các ngành khoa học. Nhiều chính sách đãi ngộ cụ thể
nhằm cải thiện từng bước đời sống của đội ngũ trí thức được ban hành và thực
hiện: từ tháng 7-1955, chế độ tiền lương được sửa đổi bước đầu, thay bằng chế
độ tiền lương mới có mức điều chỉnh cao hơn. Về mặt bảo hiểm xã hội, đã cải
tiến chế độ phụ cấp tai nạn lao động và thi hành thống nhất chế độ phụ cấp khi
sinh đẻ, khi đau ốm. Ngoài ra, nhiều biện pháp khác để cải thiện đời sống vật
chất và văn hóa cho đội ngũ trí thức cũng được dần thực hiện như: xây thêm nhà
ở, nhà ăn, nhà gửi trẻ, lập các câu lạc bộ, nhà xem sách, tổ chức các đội chiếu
bóng, văn công lưu động...
Việc mở rộng, nâng cao chất
lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo là một
trong những điểm nhấn của Chính phủ nhằm giải quyết tình trạng thiếu cán bộ,
đặc biệt ở các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật. Hệ thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp bắt đầu được
xây dựng với cơ cấu ngành học tương đối toàn diện, ở hầu hết các lĩnh vực,
trong đó các ngành học về kỹ thuật công - nông nghiệp và kinh tế được đặc biệt
chú trọng. Cùng với nhiều biện pháp khác, trong thời gian ngắn, công tác này
đưa lại kết quả tích cực: “So với năm 1957, số công
nhân kỹ thuật năm 1962 tăng gấp 6 lần, số cán bộ có trình độ đại học tăng gấp
12 lần; nhờ đó chúng ta đã khắc phục được một phần tình trạng thiếu cán bộ và
công nhân trong những năm trước”[3, tr.445].
Một biện pháp có ý nghĩa quan trọng, đưa tới hiệu quả
nhanh chóng, tích cực của Đảng, Chính phủ trong giai đoạn này là mở rộng các hoạt động kết nối giáo dục quốc tế, đưa sinh
viên, cán bộ, lao động đi học tập, đào tạo ở nước ngoài, chủ yếu là ở các nước
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa đối
với cách mạng Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Cùng số du học sinh ở miền
Bắc, thời kỳ này có không ít du học sinh miền Nam được đưa ra nước ngoài học
tập. Ngày 6-7-1956, gần 400 nữ sinh miền Nam được Bộ Giáo dục cử sang học tại
khu học xá Việt Nam tại Trung Quốc[8, tr.222]. Tiếp
đó, tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành
lập, đã nhanh chóng xây dựng cơ quan đại diện ở thủ đô một số nước xã hội chủ
nghĩa. Thông qua kênh của Mặt trận, đến tháng 6-1964, đã có 42 lưu học sinh
miền Nam được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Nhằm đáp ứng yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ giảng
dạy, ngành giáo dục thực hiện chủ trương gửi cán bộ giảng dạy
đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài, chủ yếu là Liên Xô. Theo đó, đến năm học
1964-1965, đã có 500 cán bộ giảng dạy được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước
ngoài, trong đó gần 50% là nghiên cứu sinh[6,
tr.90]. Từ năm 1955 đến năm 1964, chỉ riêng ở Liên
Xô, đã có 3.900 lưu học sinh, trong đó có 262 nghiên cứu sinh Việt Nam tham gia
học tập, nghiên cứu và thực tập khoa học.
Như vậy, trong bối cảnh khó khăn của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, công tác xây dựng đội ngũ trí thức luôn là một
trong những vấn đề ưu tiên. Trong 10 năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc (1954-1964), đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng, trưởng thành và phát
triển về chất lượng, đa dạng cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực và đóng góp quan trọng
vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
2. Một số kinh nghiệm
Một là, Đảng luôn đánh giá đúng vị trí, vai
trò của đội ngũ trí thức. Đảng đã sớm có chủ trương và ban hành nhiều
chính sách với biện pháp cụ thể, thể hiện sự quan tâm, trân trọng và tạo điều
kiện để đội ngũ trí thức phát huy năng lực sáng tạo của cá nhân. Nhờ vậy, đội
ngũ trí thức miền Bắc đã trở thành một lực lượng quan trọng, đảm đương trọng
trách lớn. Phát huy phẩm chất tốt đẹp của người trí thức chân chính, đội ngũ
trí thức miền Bắc đã góp phần không nhỏ tạo nên những thành tựu trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
Hai là, Đảng và Chính phủ kịp thời ban hành
những cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng, đãi ngộ và hỗ trợ đội ngũ trí thức. Tuy
chưa phải là những chính sách có tính “đột phá” do nguồn lực kinh tế có hạn,
lại phải dành ưu tiên nhiều công việc trọng tâm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc nhưng cũng đã giảm bớt phần nào những khó khăn về đời sống kinh tế
của đội ngũ trí thức, đời sống văn hóa so với trước được cải thiện rõ rệt.Kinh nghiệm trong thực hiện giải pháp này thể hiện sự trân
trọng của Đảng và Chính phủ đối với đội ngũ trí thức, ghi nhận xứng đáng vai
trò, vị trí và những đóng góp của họ vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.
Ba là, Đảng luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến
và phản biện của trí thức. Thực tế trong
giai đoạn xây dựng đội ngũ trí thức ở miền Bắc, một số trí thức (chủ yếu là trí
thức văn nghệ sĩ) đã thông qua các tác phẩm văn chương, nói lên nguyện vọng,
tâm tư của mình, hoặc đơn thuần chỉ là sự phản ánh cái nhìn đa chiều về hiện
thực xã hội, nhất là một số sai lầm của Đảng trong chỉ đạo thực tiễn. Điều đó
đã dẫn đến có một số kẻ lợi dụng để xuyên tạc, nói xấu quan điểm, chủ trương
của Đảng, phê phán con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam, tạo
nên những tâm lý kích động. Nhưng với thái độ tôn trọng, lắng nghe ý kiến và
những phản biện của trí thức, Đảng cùng những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng đã
tiếp thu nghiêm túc, nhanh chóng sửa chữa theo những “góp ý” từ trí thức. Mặt
khác, rất kiên quyết với những hành động lợi dung tự do, dân chủ để phá hoại
chế độ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhiều người trong số những trí thức
từng bị cho là “chống đảng” đã có sự “giác ngộ” sâu sắc, trở thành đội ngũ có
nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc giai đoạn 1954-1964 cũng như các thời kỳ lịch sử
sau này. Những giải thưởng cao quý nhất của Nhà nước được trao tặng đã thể hiện
sự ghi nhận những đóng góp lớn lao của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp phát
triển nền văn hóa Việt Nam.
Bốn là, chủ động hợp tác quốc tế trong xây
dựng đội ngũ trí thức. Nếu như trước năm 1954, Việt Nam gửi học sinh
đi đào tạo ở ba nước Liên Xô, Trung Quốc và Cộng hoà Dân chủ Đức thì trong giai
đoạn 1954-1964, học sinh miền Bắc được gửi đi học ở hầu hết các nước xã hội chủ
nghĩa. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế trong xây dựng đội
ngũ trí thức đến từ sự nghiêm túc, cẩn trọng trong
lựa chọn người được đưa đi đào tạo và sự trách nhiệm trong phối
hợp quản lý với nước đào tạo3. Ngoài ra, sự đa dạng
của lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu cũng là một thành công, nhờ đó, đã
nhanh chóng đáp ứng thiết thực yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc.
3. Những vận dụng nâng cao chất lượng
đội ngũ trí thức hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát
triển đất nước. Đội ngũ trí thức đã luôn sát cánh cùng giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và nhân dân lao động cả nước đoàn kết, phấn đấu, cống hiến tài
năng, trí tuệ, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Điều này được thể hiện
trong Chính cương, Điều lệ Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH và nhiều văn kiện khác. Đặc biệt, quan điểm này được thể hiện rõ
trong Nghị quyết số 27 - NQ/TW (khóa X)
“Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" với những
nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay. Kế thừa và tiếp nối quan điểm của Đảng
về trí thức, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức
ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo
đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng,
môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi
ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình
độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu
ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc
biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động
tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”[5,
tr.167].
Cùng với sự phát triển đất nước, đội ngũ trí thức Việt
Nam đã có nhiều đóng góp hiệu quả vào quá trình hoạch định chủ trương, đường
lối của Đảng, tạo nên những thành tựu quan trọng trong công cuộc Đổi mới. Tuy nhiên,
công tác xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta trong thời gian qua
vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đổi mới và hội nhập
quốc tế.
Quán triệt quan điểm Đại hội XIII của Đảng và vận dụng
những kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức giai đoạn
1954-1964, các tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, luôn nhận thức đúng vị trí và vai
trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển đất nước. Tích
cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên
và toàn xã hội về vị trí, vai trò của trí thức đối với sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Cần xác định, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là
một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các tổ chức đảng và chính quyền các
cấp. Tiếp tục phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” và tôn vinh đội ngũ trí
thức.
Thứ hai, phát hiện, sử dụng và có chính sách
đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ trí thức. Ðảng và
Nhà nước cần đổi mới công tác tổ chức cán bộ, tạo cơ chế để thu hút, tập hợp
nhân tài ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, tích cực hiến kế và trực
tiếp tham gia xây dựng và phát triển đất nước. Trọng dụng, tôn vinh những trí
thức có đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế, cả những trí thức ngoài Đảng. Xây dựng môi trường thuận
lợi để đội ngũ trí thức phát huy khả năng của mình. Có chế độ đãi ngộ, cơ chế
khen thưởng xứng đáng với cống hiến của đội ngũ trí thức. Công khai, minh bạch
trong công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là đội
ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao, tạo động lực và cơ hội để đội ngũ trí thức phát
triển.
Thứ ba, lắng nghe ý kiến và tạo điều kiện,
thuận lợi để trí thức phát huy tối đa khả năng của mình. Muốn
đội ngũ trí thức phát huy tốt nhất phẩm chất, giá trị, đóng góp cho sự nghiệp
chung của toàn dân tộc thì thái độ trân trọng, chính sách trọng dụng trí thức,
lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói của trí thức là điều hết sức quan trọng. Thực
hiện điều đó cần chú ý: (i) Quán triệt chính sách đại đoàn kết dân tộc, lấy
liên minh công - nông - trí làm nền tảng, tập hợp trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng và trọng dụng họ; (ii) Quan tâm tạo môi trường và điều kiện hoạt động tốt
cho trí thức cống hiến; (iii) Tôn trọng, hiểu biết điểm mạnh, điểm yếu của trí
thức, từ đó có quan điểm, thái độ đoàn kết chân thành, giúp đỡ, bồi dưỡng trí
thức có thể vượt qua những khó khăn, những rào cản để đóng góp cao nhất cho sự
nghiệp cách mạng.
Thứ tư, tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế
trong xây dựng đội ngũ trí thức. Chú ý một số
giải pháp cụ thể: (i) Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cường hợp tác và
liên thông với các cơ sở đào tạo có uy tín trên thế giới, tích cực học hỏi kinh
nghiệm, từng bước xây dựng các cơ sở đào tạo trong nước ngang tầm các nước tiên
tiến trong khu vực và thế giới; (ii) Có chính sách thu hút các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu có uy tín trên thế giới đầu tư, liên kết và mở các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu tại Việt Nam; (iii) Khuyến khích đội ngũ trí thức trong nước tự đào
tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài, đặc biệt là các ngành mà đất nước đang cần; (iv)
Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, gắn đào
tạo với nghiên, cứu khoa học và ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh; (v) Nâng cao
hiệu quả phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong nước với các cơ quan, đơn vị
nước ngoài trong công tác quản lý các hoạt động đào tạo ở nước ngoài.
Kết luận
Giai đoạn 1954-1964 là khoảng thời gian đánh dấu kết quả
nổi bật của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
nói chung và xây dựng đội ngũ trí thức nói riêng. Đội ngũ trí thức miền Bắc đã
có những đóng góp quan trọng trên nhiều phương diện. Trong xu thế chuyển động
không ngừng của thời đại, việc phát huy vai trò và sức mạnh của đội ngũ trí
thức cần được xác định là việc làm quan trọng và thường xuyên. Bởi vậy, dù có
những điểm khác biệt về bối cảnh, nhiệm vụ cách mạng nhưng những kinh nghiệm
rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức 1954-1964 vẫn còn
nguyên giá trị tham khảo, vận dụng trong giai đoạn hiện nay.