Thứ Bảy, ngày 30/07/2022, 14:00

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Hòa Bình: thực trạng và vấn đề

ĐỖ ĐỨC QUÂN
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Hòa Bình là địa phương có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, tuy nhiên, trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa trở nên phổ quát. Bài viết này phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới.

Từ khóa: Nông nghiệp công nghệ cao; phát triển nông nghiệp công nghệ cao; tỉnh Hòa Bình.

Các thành viên Hợp tác xã nông sản hữu cơ Đồng Sương, xã Liên Sơn (Lương Sơn) nỗ lực nâng cao chất lượng rau hữu cơ. (Ảnh: https://www.mard.gov.vn)

Đặt vấn đề

Hiện nay, phát triển nông nghiệp công nghệ cao là yếu tố đột phá, chuyển từ nền nông nghiệp “số lượng” sang “chất lượng và giá trị”; tạo động lực cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững; giúp tạo sự chuyển biến về chất đối với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp; chuyển dịch lao động nông nghiệp; khắc phục việc sản xuất nhỏ lẻ, thiếu gắn kết, hướng tới một nền nông nghiệp có giá trị gia tăng và tốc độ tăng trưởng cao, có khả năng cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Với việc nhận định tầm quan trọng của nông nghiệp công nghệ cao trong phát triển ngành nông nghiệp góp phần phát triển kinh tế đất nước nhanh và bền vững, cùng với những lợi thế, tiềm năng sẵn có của Hòa Bình hiện nay, đây sẽ là cơ hội thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp mang lại lợi nhuận kinh tế cao.

1. Khái niệm, nội dung phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Để phân biệt với nông nghiệp truyền thống đã có nhiều kiểu và hình thức phát triển, như: Nông nghiệp năng suất cao (Productive Agriculture); Nông nghiệp sinh học, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái (Biological, organic, ecological Agriculture), nông nghiệp công nghệ cao (High-technical agriculture). Theo lý thuyết của J.H. von Thunew (1986), cũng đã chỉ rõ: “Nông nghiệp công nghệ cao là nơi hội tụ các thành tựu tiên tiến nhất về công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ thông tin và tự động hóa trong một hệ thống nông nghiệp tập trung nhằm tạo ra một quy mô sản xuất và trình diễn công nghệ có tác dụng tích cực tới thay đổi căn bản về phát triển nông nghiệp”[2].

Công nghệ cao được tích hợp ứng dụng trong nông nghiệp công nghệ cao bao gồm: công nghiệp hóa nông nghiệp (cơ giới hóa các khâu của quá trình sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến...), tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học; các giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng cao...; các quy trình canh tác tiên tiến, canh tác hữu cơ... cho hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị sản xuất. Mục tiêu cuối cùng của phát triển nông nghiệp công nghệ cao là giải quyết mâu thuẫn giữa năng suất nông nghiệp thấp, sản phẩm chất lượng thấp, hiệu quả kinh tế thấp với việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ nhằm hướng tới đảm bảo nông nghiệp tăng trưởng ổn định với năng suất và sản lượng cao, hiệu quả và chất lượng cao. Đồng thời, thực hiện tốt nhất sự phối hợp giữa con người và tài nguyên, nhằm phát huy ưu thế tiềm năng và sử dụng nguồn tài nguyên đạt hiệu quả, hài hòa và thống nhất lợi ích xã hội, kinh tế và sinh thái môi trường. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực, tuy nhiên khái quát lại nội dung phát triển nông nghiệp công nghệ cao tập trung chủ yếu vào các nội dung sau:

i) Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp: chú trọng ở một số khâu đột phá như khảo nghiệm, ứng dụng giống mới và công nghệ vào sản xuất, các biện pháp an ninh sinh học trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản... góp phần quan trọng để nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích, rút ngắn chu kỳ nuôi trồng, giảm thiểu dịch bệnh, ô nhiễm môi trường.

ii) Tổ chức sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: Hoàn thiện tổ chức sản xuất đạt hiệu quả cao, đảm bảo chất lượng hàng hóa hướng tới mục tiêu xuất khẩu, đồng thời có khả năng liên kết bình đẳng với các chủ thể khác trong chuỗi giá trị nông sản và tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.

iii) Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao: là sản phẩm hàng hoá mang tính đặc trưng của từng vùng sinh thái, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, có khả năng cạnh tranh về chất lượng với các sản phẩm cùng loại trên thị trường trong nước và thế giới.

iv) Khu, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: phát triển kinh tế vùng cùng với cơ chế chính sách và toàn bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật đảm bảo cho các hoạt động kinh tế nông nghiệp diễn ra thuận lợi.

v) Nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao: Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo trình độ cao về tay nghề, có thể lực tốt và có ý thức tổ chức kỷ luật.

2. Thực trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Hòa Bình trong thời gian vừa qua

Hòa Bình nằm ở vị trí cửa ngõ vùng Tây Bắc Việt Nam, là khu vực đối trọng phía Tây của Thủ đô Hà Nội. Điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu phong phú đa dạng; đất đai có độ màu mỡ cao, diện tích đất lâm nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp và đất chưa sử dụng còn lớn là điều kiện để phát triển đầu tư trong lĩnh vực trồng rừng, cây công nghiệp, dược liệu và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Từ những năm 2012 đến nay, tỉnh Hòa Bình đã đưa ra nhiều chính sách và đề án nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tính đến nay tỉnh đã thu được một số kết quả như sau:

2.1. Kết quả đạt được:

- Về ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp: Hòa Bình đã triển khai thực hiện nhiều đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học công nghệ ứng dụng công nghệ sinh học hỗ trợ phát triển sản xuất, đến nay đã khảo nghiệm cơ bản trên 300 giống, khảo nghiệm sản xuất trên 40 giống lúa mới mỗi năm, lựa chọn từ 40 - 50 giống có nhiều đặc điểm nông sinh học tốt. Xây dựng mô hình nuôi thử nghiệm và khẳng định một số giống vật nuôi mới như cá tầm, cá hồi vân trên hồ Hòa Bình; nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống cá bỗng, cá trắm đen; sản xuất giống lợn hướng nạc Yorkshie, Landrad, Duroc, giống gà, vịt siêu thịt, siêu trứng, dê Bách Thảo và phát triển mô hình các vật nuôi đặc sản của tỉnh như gà đồi Lạc Sơn, gà Lạc Thủy, vịt bầu bến[7]. Những kết quả ứng dụng trong lĩnh vực công nghệ sinh học đã góp phần đưa tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 4,5%/năm, cao hơn bình quân chung cả nước (3%/năm); giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2019 đạt hơn 11 nghìn tỷ đồng; cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp và thủy sản chuyển dịch đúng hướng. Giá trị thu được trên 01 ha canh tác đất trồng trọt tăng từ 81 triệu (năm 2013) lên 135 triệu (năm 2019); giá trị tăng thu nhập từ chăn nuôi đạt trung bình 5,5%/năm; giá trị tăng thu nhập thu được thêm 01 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng từ 73 triệu (năm 2013) lên 175 triệu (năm 2019)[7].

- Về tổ chức sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: tỉnh Hòa Bình có 310 HTX nông nghiệp; 206 HTX đạt đủ tiêu chuẩn xếp loại, trong đó loại tốt 33 HTX chiếm 16%, khá 68 HTX chiếm 33%, trung bình 91 HTX chiếm 45%, yếu 14 HTX chiếm 6%; bình quân gần 18 thành viên/1 HTX, có 87 trang trại, trong đó: 28 trang trại trồng trọt; 29 trang trại chăn nuôi; 1 trang trại lâm nghiệp và 2 trang trại thủy sản; 29 trang trại tổng hợp[5].Trong đó, có 15 HTX, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực trồng trọt/lâm nghiệp với công nghệ vệ tinh viễn thám bằng phần mềm FRMS theo dõi diễn biến rừng trên địa bàn toàn tỉnh, công nghệ sinh học trong sản xuất giống, xử lý bọc màng sinh học trong bảo quản sản phẩm, công nghệ tưới tự động. Trong giai đoạn 2016 - 2020, trên địa bàn tỉnh có 16 dự án nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch được triển khai thực hiện. Trong đó dự án chăn nuôi lợn giống công nghệ cao quy mô 1.200 lợn lái, 2000 lợn thịt tại Lạc Thủy; dự án nuôi bò thịt áp dụng công nghệ cao quy mô 10.000 con; công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm giống trâu lai Murrah[4].

- Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao ngày càng đa dạng: Ứng dụng công nghệ cao song hành với chương trình OCOP đã giúp tỉnh Hòa Bình có 100 sản phẩm được chứng nhận sản phẩm OCOP, gồm: 22 sản phẩm đạt 4 sao, 78 sản phẩm đạt 3 sao. Trong năm 2021 có 31 sản phẩm được công nhận, trong đó 27 sản phẩm 3 sao và 4 sản phẩm 4 sao, tham gia quảng bá, kết nối sản phẩm tại 3 tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Lai Châu[6]. Đã triển khai và dán trên 7 triệu tem điện tử truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm: Cam Cao Phong, cam Mường Động, bưởi đỏ Tân Lạc, chuỗi cá sông Đà, chuỗi thịt lợn. Hỗ trợ hơn 242 nghìn tem điện tử truy xuất nguồn gốc sản phẩm cho liên nhóm hữu cơ Lương Sơn và HTX nông sản hữu cơ để dán trên các loại sản phẩm rau hữu cơ tại huyện Lương Sơn[1].

- Về thiết lập các khu, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: được quy hoạch tập trung ở ba vùng có lợi thế về thổ nhưỡng và cây trồng thích hợp: (1) Vùng trồng cây ăn quả (cam, bưởi, nhãn) và mía tím, tập trung ở các huyện Tân Lạc, Lạc Thủy, Cao Phong và Kim Bôi, với quy mô năm 2015 khoảng 1.712 ha (trong đó cây ăn quả: 892 ha và mía tím 820 ha), năm 2020 khoảng 2.350 ha (trong đó cây ăn quả: 1.120 ha và mía tím 1.230 ha); (2) Vùng trồng hoa, cây cảnh tập trung chủ yếu ở TP Hòa Bình và huyện Cao Phong, với quy mô năm 2015 khoảng  25 ha và năm 2020 khoảng 35 ha; (3) Vùng chăn nuôi trâu, bò thịt, nuôi lợn, gia cầm (gà) và nuôi trồng thủy sản tập trung ở các huyện Đà Bắc, Lạc Sơn, Yên Thủy, Tân Lạc, Lạc Thủy, Kim Bôi, Mai Châu và Cao Phong[4]; Quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đã tiến hành xây dựng các mô hình 11 khu và triển khai trên 11 huyện thuộc địa bàn của tỉnh (bảng 1).

Bảng 1: Các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Hòa Bình

TT

Địa điểm

1

Xã Nhuận Trạch - huyện Lương Sơn

2

Xã Phú Minh - huyện Kỳ Sơn

3

Xã Thống Nhất và xã Dân Chủ

 - TP Hòa Bình

4

Xã Mãn Đức và Lũng Vân - huyện Tân Lạc

5

Xã Đồng Tâm - huyện Lạc Thủy

6

Xã Vĩnh Đồng - huyện Kim Bôi

7

Xã Pù Bin và Noong Luông - huyện Mai Châu

8

Xã Tiền Phong và Cao Sơn - huyện Đà Bắc

9

Xã Thung Nai - huyện Cao Phong

10

Xã Liên Vũ - huyện Lạc Sơn

11

Xã Lạc Thịnh - huyện Yên Thủy

Nguồn: Sở NN&PTNT Hòa Bình (2020): Báo cáo số 312/BC- SNN ngày 19/5/2020

- Nguồn nhân lực phục vụ cho nông nghiệp công nghệ cao: Hòa Bình đã tập trung xây dựng tiềm lực cho khoa học và công nghệ và phát triển nhân lực cho toàn tỉnh nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng, quan tâm ban hành nhiều chính sách thu hút và phát huy đội ngũ trí thức trên các lĩnh vực. Hiện có 20 tổ chức khoa học và công nghệ, 10 doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Tổng số cán bộ khoa học và công nghệ là 673, chiếm 7,8% cán bộ khoa học và công nghệ/1 vạn dân[7]. Trong giai đoạn từ 2018 - 2020, các cấp hội nông dân trong tỉnh đã trực tiếp tổ chức 33 lớp cho 1.320 Hội viên Nông dân; phối hợp tổ chức 89 lớp cho 3.560 lượt người cung cấp những kiến thức theo chương trình đào tạo trình độ sơ cấp nghề và hướng dẫn thực hành của giảng viên tại cơ sở sản xuất, trang trại, các mô hình tiêu biểu ở địa bàn nông thôn. Ngoài ra, hằng năm tỉnh đã trực tiếp tổ chức hàng chục lớp dạy nghề và cấp chứng chỉ sơ cấp nghề cho 526 lao động nông thôn với các nghề trồng cây có múi theo VietGap, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản..., bên cạnh đó, việc xây dựng mô hình chi, tổ hội nghề nghiệp cũng được triển khai. Hiện, toàn tỉnh thành lập được 102 tổ Hội nghề nghiệp với 1.610 thành viên tham gia, là tiền đề cho việc thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã, góp phần đổi mới và thúc đẩy xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho nông dân[3].

2.2. Một số hạn chế, bất cập:

Mặc dù đạt được kết quả đáng ghi nhận, nhưng trong nội tại phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Hòa Bình vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định.

Thứ nhất, việc áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp vẫn chưa trở nên phổ quát và mang tính lan tỏa. Những kết quả nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học vào các lĩnh vực sản xuất, đời sống hiệu quả chưa cao, chưa tìm ra được sản phẩm công nghệ sinh học đặc thù và thế mạnh của địa phương để góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.

Thứ hai, chưa có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ hấp dẫn cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tham gia đầu tư phát triển và thương mại hóa các sản phẩm công nghệ sinh học. Số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn ít, nguồn lực có hạn trong khi chi phí cho sản xuất nông nghiệp bằng công nghệ sinh học cao hơn so với phương pháp sản xuất nông nghiệp thuần túy truyền thống, do vậy sản phẩm làm ra khó cạnh tranh trên thị trường.

Thứ ba, đầu tư khoa học công nghệ cho phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn còn ở mức thấp, dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với vị trí, tầm quan trọng và đóng góp của khu vực nông nghiệp, nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ sinh học còn thiếu và lạc hậu.

Thứ tư, nguồn nhân lực cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh Hòa Bình còn thiếu và yếu, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền nông nghiệp công nghệ cao, trong đó có những vấn đề từ nguồn kinh phí khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.

3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới

Một là, đẩy mạnh thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp. Có chính sách khuyến khích, ưu tiên kêu gọi đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển liên kết, hợp tác sản xuất theo chuỗi, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản gắn với tiêu thụ sản phẩm. Chuyển dần việc cung cấp một số dịch vụ công sang cho tư nhân và các tổ chức xã hội thực hiện; phát triển các hình thức đối tác công tư, hợp tác công tư.

Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, trình độ của lao động nông thôn. Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề lao động nông nghiệp. Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước thành lập cơ sở dạy nghề, thực hiện chương trình hợp tác đào tạo tại các Trung tâm, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để đào tạo, huấn luyện công nhân, kỹ thuật viên công nghệ cao.

Ba là, cần tập trung phát triển hiệu quả mô hình liên kết 5 nhà (nhà nông - nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà băng), tạo chuỗi liên kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ hiện đại, đẩy mạnh cơ giới hóa. Chú trọng phát triển thị trường nội địa, quảng bá, giới thiệu các mặt hàng truyền thống có sức cạnh tranh với thị trường ngoại tỉnh, thúc đẩy tiêu thụ nông sản cho nông nghiệp công nghệ cao.

Bốn là, xây dựng kế hoạch và giải pháp để thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, ưu tiên ứng dụng công nghệ cao, các giải pháp khoa học công nghệ mới tiên tiến. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ gắn với thị trường tiêu thụ một cách hiệu quả, bền vững. Triển khai kế hoạch thực hiện đề án khuyến nông trọng điểm trong năm tiếp theo. Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, thử nghiệm, khảo nghiệm hậu kiểm giống cây trồng vật nuôi, tiến bộ kỹ thuật mới.

Kết luận

Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao đã và đang là một xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong thời gian vừa qua, Hòa Bình có nhiều cố gắng phát triển nông nghiệp công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị gia tăng của ngành. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Hòa Bình cần phải quyết liệt hơn nữa trong tổ chức thực hiện kế hoạch và chiến lược phát triển đề ra của tỉnh nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình trong xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị trường trong nước và quốc tế.


Tài liệu tham khảo:

* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài: "Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại tỉnh Hòa Bình”, theo Hợp đồng số: 13/2021/HĐ-KHCN.

[1] Bình Giang (2021), Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm, http://baohoabinh.com.vn.

[2] Bùi Huy Hiền (2007), Một số ý kiến về tiêu chí, nội dung, quy mô bước đi và các chính sách vĩ mô nhằm phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Kỷ yếu hội thảo phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam, Bộ NN&PTNT.

[3] Hà Linh (2020), Hòa Bình thực hiện tốt công tác dạy nghề cho hội viên nông dân, https://dangcongsan.vn/

[4] Sở NN&PTNT tỉnh Hòa Bình (2020), Báo cáo kết quả 5 năm 2016 -2020 và kế hoạch 2021 thuộc chương trình Nông nghiệp ứng dụng Công nghệ cao, số 312/ BC  SNN ngày 19/5/2020.

[5] Sở NN&PTNT tỉnh Hòa Bình (2021), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2016-2020 và nhiệm vụ phát triển ngành năm 2021, số 36/ BC - SNN ngày 18/1/2021.

[6] Sở NN&PTNN tỉnh Hòa Bình (2021), Báo cáo Tổng kết nông nghiệp nông thôn năm 2021 và phương hướng nhiệm vụ năm 2022.

[7] Tỉnh ủy Hòa Bình (2020), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 50 - CT/TW của Ban Bí thư khóa IX về “Đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, số 813 - BC/TU ngày 31/3/2020.

Đọc thêm

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG - GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO TỈNH NAM ĐỊNH

Tác giả: Trần Thị Thanh Mai - Lại Sơn Tùng

(GDLL) - Xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là một trong những tiêu chí thành phần của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Với mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền, tỉnh Nam Định cùng các địa phương khác đã và đang tích cực triển khai xây dựng bộ tiêu chí trên. Bài viết làm rõ thực tiễn xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở một số địa phương, qua đó gợi mở một số giá trị tham khảo cho tỉnh Nam Định trong việc nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

Tác giả: PGS, TS NGUYỄN VĂN SỰ - NGUYỄN HOÀNG ANH

(LLCT) - Nghị quyết số 37 - NQ/TW ngày 01-7-2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, nhằm khai thác, phát huy lợi thế của vùng, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới... Bài viết tập trung làm rõ những thành tựu, hạn chế sau 15 năm Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết số 37, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm để vận dụng thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị khóa XIII trong thời gian tới.

Vai trò "đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết" của ngành Tuyên giáo tỉnh Điện Biên

Tác giả: MÙA A SƠN

(TG) - Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, công tác Tuyên giáo phải tiếp tục đóng vai trò “đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết” đối với tiến trình cách mạng của quê hương, đất nước; phải luôn nỗ lực, chủ động, có nhiều phương thức sáng tạo, tăng khả năng dự báo, góp phần ổn định chính trị, tạo tiền đề để tỉnh Điện Biên phát triển, tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm...

Bình Phước: Những kết quả nổi bật sau 2 năm thực hiện Kết luận 01-KL/TW của Bộ Chính trị

Tác giả: VŨ TIẾN ĐIỀN

(TG) - Sau hai năm triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhận thức về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ tỉnh Bình Phước tiếp tục được nâng lên rõ rệt, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, từ đó giúp tạo chuyển biến mạnh mẽ trong hành động, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, đảm bảo an ninh quốc phòng, nhất là công tác hỗ trợ người dân và doanh nghiệp thích ứng an toàn trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và phục hồi phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố ở Quảng Ninh hiện nay*

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY LINH

(GDLL) - Quảng Ninh là tỉnh đi đầu trong cả nước về thực hiện thí điểm nhất thể hóa chức danh bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố. Với chủ trương đúng đắn, cách làm khoa học, việc thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố ở tỉnh thời gian qua đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên còn một số hạn chế, khó khăn cần khắc phục. Bài viết phân tích thực trạng việc thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố ở Quảng Ninh và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.