Lễ khởi động Dự án “Chuyển đổi các hệ thống nông nghiệp sinh thái thông
minh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu tại vùng giữa và ven biển Đồng
bằng sông Cửu Long, Việt Nam” (nguồn: vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái đã xuất hiện tại Việt Nam
từ khá sớm. Các mô hình này đều hướng đến việc khai thác và sử dụng nguồn lực
tài nguyên một cách hiệu quả, giảm thiểu sự thất thoát lãng phí tài nguyên, tạo
ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe của con
người. Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp sinh thái tại Việt Nam còn manh
mún, tư duy sản xuất nông nghiệp sinh thái chưa phổ biến, chưa có sự hình thành
liên kết các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp sinh thái... Để thực hiện thành
công mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng, cần tiếp tục phân tích đánh giá thực trạng phát triển các mô
hình nông nghiệp sinh thái tại Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy
nông nghiệp sinh thái phát triển.
1. Nông nghiệp sinh thái và một số mô hình nông nghiệp sinh thái tại Việt
Nam
Cho đến
nay có nhiều cách hiểu khác nhau về nông nghiệp sinh thái (NNST), theo Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc (FAO), NNST là
một phương pháp tiếp cận tổng hợp chú trọng đến sự tương tác giữa các yếu tố
môi trường, xã hội và kinh tế của các hệ thống lương thực, thực phẩm thông qua
việc áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ thông minh và thân thiện với môi
trường; sử dụng hợp lý vật tư đầu vào, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, ít phát thải, không tác động xấu đến sức khỏe con người; phát huy tính
đa dạng, giá trị văn hóa của hệ thống để nâng cao giá trị nông sản nhằm bảo đảm
mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững. NNST được thể hiện ở 10 yếu tố cơ bản:
tính đa dạng; chia sẻ kiến thức và cùng sáng tạo; tính cộng hưởng; tính hiệu quả;
sự tái chế; sức chống chịu; giá trị xã hội nhân văn; truyền thống ẩm thực và
văn hóa; quản trị có trách nhiệm; kinh tế tuần hoàn và tương trợ.
Như vậy có thể thấy, NNST cân bằng mối quan hệ giữa con
người và hành tinh, thúc đẩy cả ba khía cạnh của phát triển bền vững về xã hội,
kinh tế và môi trường. NNST có nhiều ưu điểm vượt
trội mà canh tác truyền thống không thể có được như tạo ra nguồn thực phẩm tốt
cho sức khỏe; giúp bảo vệ sức khỏe người nông dân; giúp nâng cao sản lượng, tiết
kiệm chi phí nuôi trồng; giúp bảo vệ môi trường và cân bằng hệ sinh thái.
Tại Việt Nam, mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng
sinh thái đã được triển khai từ khá sớm. Các mô hình này đều hướng đến việc
khai thác tài nguyên một cách hiệu quả và tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng
cao, giảm tối đa tác động đến môi trường sinh thái, bảo vệ hệ sinh thái và sức
khỏe của con người.
Mô hình vườn - ao - chuồng (VAC): Hệ
thống VAC là hệ thống khép kín mà các thành phần trong hệ thống này có liên hệ mật
thiết với nhau, sử dụng chất thải của thành phần này làm nguyên liệu đầu vào cho
thành phần khác. Hệ thống VAC là một hệ thống sinh thái hoàn chỉnh, thống nhất
các khâu, các thành phần, chi phí đầu tư thấp và phù hợp với hầu hết các vùng
ngoại thành, nông thôn Việt Nam. Hiện nay, nhiều mô hình VAC được áp dụng rộng
rãi ở nông thôn, tạo được mối liên kết hiệu quả giữa nông dân, doanh nghiệp,
các nhà khoa học và đã phát triển thành công tại nhiều trang trại và các doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn.
Mô hình lúa - tôm, lúa - cá: Với mô hình luân
canh này, cây trồng, vật nuôi không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, kháng
sinh, tạo ra sản phẩm sạch, an toàn và bảo vệ môi trường, giúp nông dân nâng
cao thu nhập. Cho đến nay, mô hình này đang được cải biến thành mô hình “lúa
thơm - tôm sạch” và “lúa thơm - cá sạch”. Đây chính là sản phẩm của quá trình
cùng đổi mới, sáng tạo dựa trên tri thức và điều kiện tự nhiên vùng, miền. Mô
hình này được đánh giá là mang lại những hiệu quả như: phát triển nông nghiệp bền
vững, giảm ô nhiễm môi trường, duy trì môi trường sinh thái, tạo ra và cung cấp
cho thị trường sản phẩm sạch.
Mô hình
nông, lâm kết hợp: Mô hình nông, lâm kết hợp là một hệ
thống quản lý sử dụng đất, trong đó, cây hằng năm, cây bụi, cây thân thảo được
trồng xung quanh hoặc xen giữa các cây trồng lâu năm, cũng có thể kết hợp đồng
cỏ hoặc chăn nuôi. Sự kết hợp này tạo ra sự đa dạng, mang lại năng suất, lợi
nhuận, sinh thái và bền vững trong sử dụng đất. Tính đa dạng sinh học trong các
hệ thống nông, lâm kết hợp thường cao hơn trong hệ thống nông nghiệp thông thường.
Do đó, nhiều trang trại, hộ nông dân đã lựa chọn chuyển đổi sang mô hình nông,
lâm kết hợp nhằm đa dạng hóa sản phẩm, cải thiện sinh kế cũng như thích ứng với
các tác động của biến đổi khí hậu.
Mô hình nông nghiệp cảnh quan
bền vững: Đây là phương pháp tiếp cận tổng hợp để giải quyết tình
trạng suy thoái môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng cường đa dạng
sinh học, đồng thời cải thiện an ninh về lĩnh vực lương thực và dinh dưỡng. Đến
nay, có nhiều mô hình nông nghiệp cảnh quan bền vững, như mô hình cà phê cảnh
quan ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk; mô hình quản lý và bảo tồn hệ sinh thái ngập
nước và phát triển sinh thái bền vững ở Vườn quốc gia Tràm Chim, tỉnh Đồng
Tháp.
Mô hình chăn nuôi an toàn sinh
học 4F (Farm - Food - Feed - Fertilizer: Trang trại - Thành phẩm - Thức ăn chăn nuôi - Phân bón hữu cơ): Mô hình 4F được nghiên
cứu và phát triển bởi Tập đoàn Quế Lâm nhằm xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp
thông qua triển khai các khu tổ hợp chế biến nông sản hữu cơ, kiểm soát sản xuất
thịt lợn an toàn bằng hệ thống nuôi khép kín. Chất thải trong trang trại được
thu gom và xử lý để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt, tạo
thành quy trình sản xuất nông nghiệp khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ
cây đến đất. Mô hình góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, phòng ngừa dịch bệnh,
góp phần bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính.
Mô hình nông
nghiệp kết hợp du lịch sinh thái: Thời gian qua, có nhiều mô hình nông
nghiệp du lịch sinh thái triển khai thành công ở Việt Nam, như du lịch nông
nghiệp ở Hội An (tỉnh Quảng Nam); du lịch nông nghiệp tại Ba Vì (thành phố Hà Nội),
Tam Đường (tỉnh Lai Châu), Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát (tỉnh Lào Cai), HTX Nông nghiệp sinh thái Nà Sản, Mộc Châu (Sơn La), ... đang là điểm
sáng trong phát triển du lịch sinh thái, mang lại lợi ích cao cho thành viên,
nông dân liên kết.
2. Quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam
Việt Nam là nước có tiềm năng, lợi thế
phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới. Do đó, vấn đề nông nghiệp, nông dân và
nông thôn luôn là một nội dung quan trọng trong chiến lược và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Trong suốt quá trình
phát triển của đất nước Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng phát triển nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, đề ra các chủ trương, chính sách lớn nhằm thúc đẩy
nông nghiệp, nông dân và nông thôn phát triển tiến lên văn minh hiện đại.
Trong những năm qua, nhờ định hướng đúng đắn của Đảng và
Nhà nước, Việt Nam đã khai thác tốt lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tiếp
tục phát triển, duy trì tăng trưởng và đang chuyển dịch theo hướng sản xuất
hàng hóa với quy mô, năng suất và chất lượng ngày càng cao, phát triển các
ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản không ngừng
tăng trưởng, đưa Việt Nam trở thành một trong những cường quốc nông sản trên thế
giới. Cùng với đó, ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
nguồn lực đầu vào và tài nguyên cho quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Xuất phát từ thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam,
đặc biệt từ vị trí vai trò của nông nghiệp sinh thái trong phát triển bền vững,
Đảng ta đã xác định xu hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới,
đó là phát triển nông nghiệp sinh thái để tăng tính chống chịu với các rủi ro
khí hậu và phi khí hậu cũng như để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông
thôn hiện đại, nông dân văn minh... xây dựng đời sống văn hóa, nông thôn mới kiểu
mẫu và bảo vệ môi trường sinh thái”[2, tr.124-125]. Triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển nông nghiệp sinh thái, Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28 tháng 01 năm 2022 về phê duyệt
"Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 -
2030, tầm nhìn đến năm 2050". Theo đó, quan điểm phát triển nông nghiệp
sinh thái cũng được xác định là một trong những xu hướng chủ yếu trong phát triển
nền nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới: "...Phát triển nông nghiệp
sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các bon thấp, thân thiện với môi trường
và thích ứng với biến đổi khí hậu". Chiến lược cũng đặt ra mục tiêu phát
triển nông nghiệp xanh thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu,
giảm ô nhiễm môi trường nông thôn, phấn đấu giảm phát thải khí nhà kính 10% so
với năm 2020.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045 khẳng định rõ quan điểm: “...Nguồn lực của đất nước phải
tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bảo đảm phát triển
hài hòa giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền, địa phương; gắn kết
chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa phát triển
nông thôn bền vững với quá trình đô thị hóa theo hướng nông nghiệp sinh thái,
nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”[1].
Như vậy, nền nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới cần
được đầu tư theo hướng NNST Nông nghiệp phát triển dựa trên các tiến bộ khoa học
- công nghệ mang tính sinh thái cho phép đa dạng hóa sản phẩm, vừa bảo đảm tăng trưởng, vừa bảo vệ được các
tài nguyên tự nhiên như đất, nước, rừng, đa dạng sinh học, giúp thích ứng và giảm
thiểu biến đổi khí hậu. Việc chuyển đổi sang mô hình NNST cũng sẽ góp phần đa dạng
hóa cây trồng, nâng cao năng lực của nông dân trong việc bảo đảm an ninh lương
thực, cung ứng sản phẩm an toàn thực phẩm và tăng cường đa dạng sinh học nông
nghiệp, cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất trước biến đổi khí hậu,
góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về thích ứng và giảm thiểu
biến đổi khí hậu. Có thể nói, phát triển NNST là hướng đi tất yếu hướng tới
phát triển nông nghiệp bền vững.
3. Những khó khăn, hạn chế khi thực hiện phát triển nông nghiệp sinh
thái ở Việt Nam
Phát triển NNST ở Việt Nam còn manh
mún, tư duy sản xuất theo NNST còn chưa phổ biến, các hoạt động sản xuất, kinh
doanh chủ yếu tập trung vào việc gia tăng sản lượng mà chưa chú trọng nhiều đến
các yếu tố về an toàn thực phẩm, tính tự bền vững của hệ thống sản xuất, tính
đa dạng sinh học, sức khỏe đất, sức khỏe cây trồng và chưa tập trung vào nâng
cao chất lượng của sản phẩm;
Các tổ nhóm nông dân, Hợp tác xã nông nghiệp sinh thái
còn thiếu, các mô hình chuỗi giá trị sản phẩm NNST hầu hết chỉ dừng lại ở các
mô hình nhưng chưa được nhân rộng;
Chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp đặc biệt là phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái;
chưa có sự hình thành liên kết hình thành các chuỗi giá trị, sản phẩm NNST chưa
được chứng nhận, dán nhãn, chưa có doanh nghiệp vào bao tiêu;
Động lực từ các chính sách thúc đẩy
các hệ thống sản xuất nông nghiệp chưa đủ lớn để tạo ra một sân chơi bình đẳng
cho NNST...
4. Một số giải pháp cơ bản phát triển nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của
người sản xuất và xã hội về phát triển NNST
Để phát triển mạnh hơn NNST, trước hết
cần có những chiến lược truyền thông để thay đổi nhận thức cho những nhà quản
lý, người nông dân, hợp tác xã, các doanh nghiệp và cả xã hội để khuyến khích sản
xuất theo hướng sinh thái. Cùng với sản xuất, chế biến có trách nhiệm thì đối với
chuỗi, vai trò người tiêu dùng cũng rất quan trọng, giúp định hướng, khuyến
khích phát triển sản xuất và chế biến. Tiêu dùng có trách nhiệm là phải thúc đẩy
việc tiêu thụ những sản phẩm an toàn, có tiêu chuẩn, có chứng nhận, có xuất xứ
rõ ràng. Đồng thời, người tiêu dùng sẵn sàng trả một giá trị tương xứng cho những
sản phẩm này. Truyền thông để khuyến khích người tiêu dùng sẵn sàng đón nhận những
sản phẩm sản xuất theo các nguyên tắc NNST, khuyến khích và có cơ chế, chính
sách để các doanh nghiệp đưa sản phẩm NNST ra thị trường. Ngoài ra, cần tăng cường
phổ biến rộng rãi các kiến thức và mô hình NNST thành công dưới các hình thức
khác nhau để nâng cao nhận thức cho người sản xuất, góp phần nhân rộng mô hình
NNST.
Thứ hai, đổi
mới sáng tạo trong nông nghiệp, tăng cường chia sẻ tri thức nhằm hướng tới nền
nông nghiệp bền vững, minh bạch, trách nhiệm.
Khuyến khích nghiên cứu, phát triển,
đổi mới sáng tạo và áp dụng các giống cải tiến thích ứng tốt hơn trước tác động
của biến đổi khí hậu và thiên tai, đồng thời chú trọng công tác thu thập, bảo tồn
và phát triển nguồn gen cây trồng, vật nuôi quý của địa phương làm vật liệu chọn
tạo giống cả bằng hình thức tại nông hộ và ngân hàng gen; hỗ trợ người nông dân
gìn giữ các giống cây, con quý thông qua hỗ trợ phát triển các giống địa phương
thành sản phẩm đặc sản, nâng cao giá trị kinh tế sản xuất, giúp người dân gắn
bó với sản xuất nông nghiệp. Có chính sách và chương trình hỗ trợ kỹ thuật để
khuyến khích áp dụng các hệ thống sản xuất NNST, nông nghiệp bền vững.
Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá NNST
Hiện nay, các tiêu chí đánh giá NNST đang được các tổ chức
nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn. Việt Nam cần có những tiêu chí về NNST để
đánh giá hệ thống sản xuất hiện tại, từ đó định hướng phát triển NNST phù hợp với
điều kiện của Việt Nam hoặc với từng vùng và sản phẩm.
Thứ tư, xây dựng chính sách hỗ trợ người sản xuất chuyển
đổi từ nông nghiệp truyền thống sang NNST
Phát triển nông nghiệp theo các
nguyên tắc NNST có thể sẽ làm giảm năng suất và hiệu quả trước mắt. Vì thế, cần
có những chính sách hỗ trợ người dân trong việc chuyển đổi hệ thống sản xuất.
Việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ cho NNST với sự tham gia của khuyến nông cộng
đồng là cấp thiết đối với quá trình chuyển đổi sang NNST. Bên cạnh các chính
sách đào tạo, tập huấn kiến thức cho người nông dân, cũng cần có chính sách hỗ
trợ về giống, kết nối chuỗi, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm NNST, hoặc có chính sách
ưu đãi tín dụng hỗ trợ cho NNST.
Thứ năm, phát triển liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm
NNST
Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi
giá trị là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho
nông dân và doanh nghiệp. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách
thúc đẩy liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, cần có những chính sách
hỗ trợ cho các hộ liên kết sản xuất theo mô hình NNST. Hỗ trợ các doanh nghiệp
bao tiêu đầu ra cho nông nghiệp thông qua chính sách ưu đãi tín dụng, thuế, hỗ
trợ đào tạo, xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Nghiên cứu xây dựng
phát triển các chương trình thúc đẩy tiêu thụ nông sản an toàn, trách nhiệm,
minh bạch, các chương trình hỗ trợ quảng bá sản phẩm NNST, thực hiện dán nhãn
sinh thái và xây dựng thương hiệu sản phẩm NNST.
Kết luận
Phát triển NNST
đã và đang trở thành hướng đi tất yếu hướng tới phát triển
nông nghiệp bền vững. Với việc nhận diện vai trò, tính ưu thế của NNST, đánh giá
các mô hình NNST và đề xuất một số giải pháp trên sẽ góp phần thay đổi tư duy
nhận thức của người sản xuất, người tiêu dùng và toàn xã hội về phát triển
NNST, góp phần tạo sức bật cho NNST tại Việt Nam phát triển mạnh trong thời
gian tới.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ban Chấp hành Trung
ương (2002), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần
thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] Đào Thế Anh, Lê
Thành Ý, Chu Tiến Quang (2020), Phát triển nền nông nghiệp
sinh thái gắn với phát triển nông thôn bền vững, https://nhandan.vn.
[4] Đoàn Minh Huấn
(2022), Đổi mới tư duy phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn - nhìn từ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của hệ thống chính trị và
phát huy dân chủ ở nông thôn, http://tapchimattran.vn.
[5] Lê Minh Hoan (2022), Phát triển
nông nghiệp sinh thái, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, https://vietnamnet.vn.