
Việt Nam đề cao tăng cường hệ thống an sinh xã hội tại
Hội nghị Lao động quốc tế (nguồn: vnanet.vn)
Đặt vấn đề
An sinh xã hội (ASXH) giữ vai trò đặc biệt quan trọngđối với việc ổn định chính trị - xã hội, xây dựng và phát
triển nguồn lực con người, góp phần thể hiện tính nhân văn và chủ nghĩa xã hội
cao đẹp, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Trong
giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tổ chức thực hiện
tốt các chính sách ASXH. Song, nhìn chung hệ
thống ASXH còn một số hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
Để giải quyết những vấn đề đó, rất cần nghiên cứu thực trạng thực hiện chính
sách ASXH, từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam,
“phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa"[3, tr. 111-112].
1. Vai trò của chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam
An sinh xã hội là hệ thống chính sách, chương trình của Nhà nước và của các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp
đỡ toàn xã hội, cá nhân gặp phải rủi ro hoặc biến cố xã hội để đảm bảo mức sống
tối thiểu và nâng cao đời sống của họ.
Từ nhiều
năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi
đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển
bền vững. Bảo đảm ASXH là điều kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho
sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ
ta. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi và bổ sung) lần đầu tiên khẳng định quyền
ASXH là quyền cơ bản của con người. Cụ thể, trong Nghị quyết số 15 - NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ngày 01/6/2012 Về một số vấn đề về chính
sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 đã đề ra quan điểm bảo đảm ASXH với cấu trúc gồm: 1 - Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2 - Bảo hiểm xã
hội; 3 - Trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 4 -
Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch, bảo đảm thông tin). Quan điểm này đã trở thành nền tảng và định
hướng cho việc thể chế hóa cơ chế, chính sách, pháp luật về ASXH gắn liền với
yêu cầu thực tiễn của đất nước.
Để thực hiện tốt chính sách ASXH, Đại hội XIII Đảng đã đưa ra
quan điểm: “Hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội,
chính sách dân tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động; bảo đảm cơ bản
ASXH, nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính
sách đối với người có công; tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương, mở rộng
bảo hiểm xã hội...”[4, tr.65].
Như vậy, quan điểm của Đảng về ASXH ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn,
có tác động tích cực đến đời sống xã hội của người dân, góp phần quan trọng ổn
định chính trị - xã hội của đất nước, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng để thấy rõ vai trò của ASXH ngày càng được
mở rộng ở nhiều góc độ, lĩnh vực khác nhau như:
Thứ nhất, đối với việc ổn định chính trị - xã hội.Việc
thực hiện hiệu quả chính sách ASXH góp phần làm cho đời sống nhân dân được ổn
định, nâng cao. Điều này góp phần khẳng định đường lối chính trị của Đảng và
Nhà nước là đúng đắn, sáng tạo. Niềm tin của quần chúng nhân dân vào đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng nâng cao, quần chúng nhân dân ngày
càng tin và ủng hộ sự nghiệp Đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo. ASXH được đảm bảo và triển khai tích cực trong cả nước, khiến cho các
tệ nạn xã hội giảm dần, nhận thức của người dân được nâng lên và tiến bộ hơn.
Thứ hai, đối với việc xây dựng và phát triển nguồn lực con người. Khi các dịch vụ y tế, giáo dục và mọi vấn đề về phúc lợi,
an sinh được đảm bảo thì đây là điều kiện quan trọng để nguồn nhân lực phát
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Thứ ba, góp phần thể hiện tính nhân văn và chủ nghĩa xã hội cao đẹp.Chính sách ASXH tạo điều kiện, cơ hội cho người kém may
mắn, những người bất hạnh trong xã hội để họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống,
từ đó có hành vi phù hợp với khuôn mẫu, giá trị, chuẩn mực của xã hội. Đồng
thời giúp mọi người hướng tới một xã hội công bằng, góp phần tạo nên cuộc sống
công bằng, văn minh.
Thứ tư, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.Trước sự thay đổi như vũ bão của tất cả các mặt trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra một cách mau lẹ, nhanh chóng là đòi hỏi bức thiết của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Việc đảm bảo ASXH là yếu tố quan trọng để Việt Nam có cơ hội
vươn ra hội nhập với kinh tế quốc tế, sánh vai cũng với các cường quốc trên thế
giới và cùng thực hiện các mục tiêu chung của nhân loại.
2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam
2.1. Một số kết quả đạt được
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong
những năm vừa qua, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân dần được cải thiện. Mô hình ASXH của Việt Nam đã thể hiện
được bản chất tốt đẹp của chế độ, đem lại những thành quả đáng khích lệ, được
thế giới công nhận, như thành tích trong hỗ trợ tạo việc làm và giảm nghèo,
giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp xã hội, người có
công...
Trong báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được Chương
trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam công bố ngày 9-9-2022, chỉ
số HDI của Việt Nam là 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng
toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia[3]. Từ một xuất phát điểm thấp, khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, người dân nhiều nơi thiếu ăn, thiếu mặc đến
nay đời sống nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều
được nâng lên là thực tiễn minh chứng về định hướng XHCN với mục tiêu vì con
người trong thực hiện chính sách xã hội đã mang lại những thay đổi vượt bậc cho
Việt Nam, chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam ngày càng tiến bộ.
Năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập
trung bình. Hàng năm, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm khoảng 1%-1,5%/năm; đến
năm 2021 giảm còn 2,23%. Thu nhập bình quân hộ nghèo ngày càng tăng lên: năm
2020 gấp 2,3 lần năm 2015, gấp 3,5 lần năm 2010[2]. Thành tựu ấn tượng trên đây được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao là điểm sáng về giảm nghèo có được do chính sách giảm
nghèo được đẩy mạnh thực hiện trong suốt thời kỳ Đổi mới với các Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020...
Năm 2020, đã giải quyết cơ bản hồ sơ đề nghị công nhận người có công còn
tồn đọng. Cuối năm 2021, cả nước có trên 9,2 triệu người có công; trong đó,
trên 1,2 triệu người có công được hưởng trợ cấp thường xuyên, 98,6% gia đình
người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên
địa bàn[2]. Đạt
được kết quả trên đây cho thấy, chính sách người có công với cách mạng đã được
Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được thực hiện phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội đã trở thành phong trào “đền ơn đáp nghĩa” sâu rộng, xuyên suốt từ
Trung ương đến địa phương, tích cực chăm lo đời sống gia đình người có công và
công tác thương binh, liệt sĩ.
Thị trường lao động từng bước được hoàn thiện về thể chế, tạo cơ sở giải
quyết việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp. Kết quả tạo việc làm đạt
thành công nổi bật trong nhiều năm qua, hàng năm cả nước có từ 1,5-1,6 triệu
người được giải quyết việc làm; riêng 2 năm 2020-2021, do ảnh hưởng của đại
dịch Covid-19, con số này giảm xuống còn khoảng 1,3 triệu người/năm. Tỷ lệ thất
nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, cơ cấu lao động chuyển dịch tích
cực, tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 45% năm 2015 xuống
còn 32% năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%. Chính sách tiền lương
tối thiểu được điều chỉnh hàng năm đã cơ bản bảo đảm mức sống tối thiểu, góp
phần bảo vệ thu nhập cho người lao động. Tiền lương và thu nhập bình quân của
người lao động đã tăng 3 lần trong 10 năm qua, thu nhập bình quân của người lao
động năm 2020 là 4,2 triệu đồng/tháng[2].
Chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp ngày càng hoàn thiện,
đa chiều, công bằng và rộng mở hơn. Đối tượng tham gia các hình thức bảo hiểm
xã hội ngày càng được mở rộng và tăng lên, đạt 16,2 triệu người năm 2020 và
16,6 triệu người năm 2021. Trong đó, số người tham gia bảo hiểm tự nguyện đạt
gần 1,5 triệu người. Hiện nay, số người được hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp
bảo hiểm xã hội hàng tháng có tới 3,3 triệu người[2].
Cùng với đó, Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn phổ cập giáo dục từ
mầm non đến trung học cơ sở. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt
97,85%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70,25%; Hệ thống y tế cơ sở được hoàn
thiện về kết cấu hạ tầng và nhân lực, y tế
dự phòng được tăng cường. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đạt trên 90%;
Điều kiện nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, nhà ở cho
người lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên từng bước được
cải thiện; Chính phủ đã tập trung nguồn lực phát triển mạng lưới cấp nước sạch
nông thôn, nhất là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội khó khăn. Trong giai đoạn 2012-2021, tỷ lệ dân số nông thôn được sử
dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh tăng từ 80,3% lên 90%; Hệ thống thông tin
truyền thông cơ sở được ưu tiên đầu tư, bảo đảm thông tin về chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến người dân[2].
1.2. Một số tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân
- Nguồn lực thực hiện ASXH còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Nguồn lực thực hiện
chủ yếu được cấp từ ngân sách Nhà nước, các nguồn kinh phí từ tổ chức, đoàn
thể, cá nhân, doanh nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung
và yêu cầu của chính sách ASXH chưa đầy dủ, kịp thời và rõ ràng đối với những
đối tượng liên quan. Các văn bản hướng dẫn thực thi nhiều khi chưa rõ ràng,
công khai.
- Chất lượng dịch vụ còn thấp, nguyên tắc của
hệ thống ASXH như mọi người dân có quyền an sinh, tạo sự đoàn kết gắn bó, tương
trợ giữa các cá nhân, nhóm xã hội, gắn trách nhiệm và quyền lợi… chưa nhận thức
một cách đầy đủ.
Những tồn tại, hạn chế này là dotình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường;
Tình hình trong nước, khó khăn thách
thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi vì là quốc gia đang phát triển, nền kinh tế
đang trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô còn khiêm tốn, độ
mở lớn, sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài và khả năng cạnh tranh còn
hạn chế; Nhận thức của một số
cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của
chính sách ASXH
chưa đầy đủ, toàn diện, chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện; Hệ thống chính sách, pháp luật về chính sách
ASXH chưa hoàn thiện, đồng bộ; Công tác quản lý nhà nước còn
bất cập, phương thức quản lý chậm đổi mới...
3. Giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện
nay
Thứ nhất, bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đảng, Nhà nước, cấp ủy đảng và chính quyền các
cấp cần phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng chương trình kế
hoạch thực thi chính sách ASXH
theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. Tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách ASXH trên
từng lĩnh vực để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp
chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho
người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tinh
gọn, hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách liên quan đến
ASXH theo hướng kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế, gắn tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ASXH. Xây dựng các văn bản pháp
luật bảo đảm khung pháp lý đầy đủ, hiệu lực, khả thi phù hợp với giai đoạn phát
triển mới. Ưu tiên hoàn thiện các chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân
tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, hỗ trợ theo nhu cầu và tạo
động lực phấn đấu cho đối tượng thụ hưởng. Khắc phục những tồn tại, hạn chế,
bất cập trong thủ tục hành chính nhằm tạo cơ sở hành lang pháp lý đầy đủ nhất
có thể cho lĩnh vực ASXH.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
vận động xã hội, tổ chức, đoàn thể và người dân tham gia tích cực vào chính
sách ASXH.
Tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ và
người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về vai trò và vị trí của ASXH
trong chuỗi động lực phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa
và môi trường, hợp tác quốc tế. ASXH phải trở thành khâu đột phá chiến lược
trong mô hình phát triển bền vững của đất nước giai đoạn 2021 - 2026 và những
năm tiếp theo. Để thực hiện giải pháp này, công tác giáo dục, đào tạo, các
phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Bên cạnh đó, cần tích cực huy động các nguồn lực cho chính sách xã hội,
tăng chi ngân sách nhà nước kết hợp với huy động đóng góp của người dân, doanh
nghiệp và xã hội cho ASXH. Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển
đa dạng các mô hình ASXH, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham
gia của cộng đồng (các đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia
đình, dòng họ, cá nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ ASXH, thực hiện các
hoạt động nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những
đối tượng đặc thù.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để hoàn thiện hệ sinh
thái an sinh số.
Hoạt động áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào công tác quản
lý, giám sát, chi trả, thụ hưởng giữa các cơ quan quản lý nhà nước, xã
hội và người thụ hưởng ASXH, nhằm đáp ứng nhu cầu hỗ trợ, đóng
góp, thụ hưởng ASXH ngày càng cao, tạo môi trường để mọi thành viên
trong xã hội được kết nối, tương tác và cá nhân hóa ASXH, giúp thích
ứng linh hoạt, công khai, minh bạch và phát triển nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ đảm bảo quyền lợi cho người dân.
Thứ năm, chú trọng các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát.
Trong lĩnh vực ASXH cần công khai, minh bạch những chủ thể có trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, từ đó kịp thời phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định của pháp luật; kịp
thời điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện chính sách trên địa bàn, đảm bảo chính
sách phải tới tay người thụ hưởng, không để lãng phí, tiêu cực xảy ra. Hoàn
thiện hệ thống theo dõi giám sát cho từng lĩnh vực, thực hiện nghiêm túc các
hoạt động báo cáo định kỳ, cập nhật đầy đủ và chính xác các số liệu qua các cấp
quản lý; không phê duyệt, cấp kinh phí khi không báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp
thời.
Kết luận
Trong một xã hội đang chuyển đổi như nước ta hiện nay, ASXH là lĩnh vực
rộng lớn, luôn luôn biến động, vừa do Nhà nước nắm giữ, quản lý, điều phối, vừa
được thực hiện bằng con đường thiện nguyện, xã hội hóa với cơ chế, chính sách
ngày càng thông thoáng. Để hệ thống ASXH của nước ta đồng bộ và hoàn thiện, góp
phần đưa đời sống của người dân được ấm no cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
trong đóng góp xây dựng và thụ hưởng ASXH, thể hiện ngay từ việc xây dựng hệ
thống cơ chế, chính sách, pháp luật và trong thực tiễn điều hành, quản lý của
cán bộ, viên chức các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân và nhân dân.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022), Dự
thảo Báo cáo đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 15 Trung ương 5 khóa XI.
[2] Các số liệu về kết quả thực hiện chính sách xã hội từ năm 2012 đến năm
2020 được tổng hợp từ các tài liệu: (1) Báo cáo Đề dẫn Hội thảo vùng phía
Bắc tổng kết 10 năm thực hiện NQ Trung ương 5 khóa XI “Về một số vấn đề chính
sách xã hội giai đoạn 2012-2020”, Hà Nội, ngày 16-9-2022; (2) Kết quả, hạn
chế và kinh nghiệm rút ra trong thực hiện chính sách xã hội 10 năm qua của nước
ta, Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận - thực tiễn qua 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI, về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn
2012-2020”.
[3] Chỉ số phát triển con người Việt
Nam tăng hai bậc (2022), https://www.nhandan.vn.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[5] Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa
XI về Một số vấn đề về chính sách xã hội
giai đoạn 2012 - 2020.