
Tọa đàm "Nguồn nhân lực cho thị trường tín chỉ carbon" (ảnh news.vnanet.vn)
Đặt vấn
đề
Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước của Liên Hợp
Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức
phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net zero). Để đạt được mục
tiêu nói trên, trong thời gian tới, chúng ta cần ban hành các chính sách, thực
hiện các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân giảm phát thải
khí nhà kính, thu hồi carbon. Để thúc đẩy nhanh việc giảm phát thải ròng thì
phát triển thị trường tín chỉ carbon được coi là một giải pháp mang tính bền vững.
Khi thị trường tín chỉ carbon hoạt động hiệu quả, hành vi cắt giảm phát thải, mỗi
hoạt động có khả năng thu hồi carbon của các tổ chức, cá nhân hứa hẹn tăng thêm
một khoản thu nhập cho họ. Đây là một trong những động lực kinh tế để Việt Nam
thực hiện lộ trình Net zero. Để thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường
tín chỉ carbon ở Việt Nam, trong thời gian tới, chúng ta cần phải hoàn thiện
khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách và thực hiện những giải pháp phù hợp để
sàn giao dịch tín chỉ carbon đi vào hoạt động hiệu quả.
1. Một số vấn đề lý luận về thị trường tín chỉ carbon
1.1. Khái niệm tín chỉ carbon và thị trường tín chỉ carbon
- Tín chỉ
Carbon (carbon credit) là giấy phép được quyền phát thải carbon dioxide (CO2)
hoặc các khí nhà kính khác vào khí quyển. Mỗi tín chỉ carbon đại diện cho một tấn
CO2 hoặc khí nhà kính tương đương đã được giảm bớt, thu giữ hoặc tránh phát thải
vào môi trường nhờ các dự án bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hoặc các biện
pháp cải tiến quy trình sản xuất.
- Tiêu
chuẩn vàng (Gold Standard) là một trong những hệ thống chứng nhận uy tín nhất
trong lĩnh vực giảm phát thải carbon và bảo vệ môi trường. Tiêu chuẩn này được
thiết lập để đảm bảo rằng, các dự án giảm phát thải khí nhà kính không chỉ giúp
giảm lượng phát thải mà còn mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng và môi trường.
- Tiêu
chuẩn VCS (Verifed Carbon Standard) là tiêu chuẩn quốc tế được công nhận rộng
rãi trong lĩnh vực tín chỉ carbon. Mục tiêu chính của tiêu chuẩn này là xác
minh và chứng nhận tính hợp lệ của các dự án giảm phát thải khí nhà kính.
- Thị
trường tín chỉ carbon là một hệ thống kinh tế cho phép các quốc gia, doanh nghiệp
và tổ chức mua bán quyền phát thải khí nhà kính, với mục tiêu giảm tổng lượng
phát thải carbon dioxide (CO2) và các khí gây hiệu ứng nhà kính khác.
1.2. Nguyên tắc hoạt động và mô hình thị trường tín chỉ
carbon
Thị trường
tín chỉ carbon hoạt động dựa trên nguyên tắc "cap and trade" (giới hạn
và giao dịch). Trong hệ thống này, Chính phủ đặt ra một giới hạn (cap) cho tổng
lượng phát thải và cấp phát tín chỉ carbon cho các tổ chức.
Thị trường
tín chỉ carbon thường hoạt động theo hai mô hình: thị trường bắt buộc và thị
trường tự nguyện.
Thị trường
bắt buộc hoạt động dựa trên các cam kết quốc tế hoặc các quy định pháp lý trong
nước. Đó là việc các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các quốc gia đặt ra những
quy định đối với các doanh nghiệp có mức phát thải cao phải cam kết giảm phát
thải khí nhà kính và có thể sử dụng tín chỉ carbon như một công cụ để hoàn
thành cam kết của mình.
Thị trường
tự nguyện là loại thị trường không bị ràng buộc bởi các quy định bắt buộc mà do
các doanh nghiệp tự nguyện tham gia, thể hiện trách nhiệm của họ với việc đối với
việc giảm thiểu tác động môi trường. Trong thị trường này, các doanh nghiệp có
thể tự quyết định mua tín chỉ từ các dự án giảm phát thải khí nhà kính như trồng
rừng, phát triển năng lượng tái tạo, hoặc các sáng kiến bảo vệ môi trường khác.
1.3. Cơ chế hoạt động của thị trường tín chỉ carbon
Sau khi
thiết lập mức phát thải giới hạn (Cap-and-Trade), các tín chỉ carbon sẽ được
phân bố hoặc cấp phát cho các doanh nghiệp, quốc gia hoặc tổ chức theo tỷ lệ nhất
định. Có hai phương thức phân bổ phổ biến loại tín chỉ này là: phân bổ miễn phí
và phân bổ qua đấu giá tín chỉ.
Phân phối
miễn phí, tín chỉ carbon được cung cấp miễn phí cho các tổ chức hoặc quốc gia dựa
trên những tiêu chí cụ thể như mức phát thải, năng lực giảm phát thải hoặc tình
trạng phát triển của nền kinh tế. Chi phí cho những tín chỉ carbon miễn phí này
thường là do người tiêu dùng cuối cùng chi trả thông qua giá bán sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ hoặc được chi trả bởi Chính phủ hay cộng đồng xã hội.
Đối với
phương thức đấu giá tín chỉ, tín chỉ carbon có thể được bán qua phiên đấu giá.
Các tổ chức có thể tham gia đấu giá để mua tín chỉ carbon dựa trên nhu cầu và
năng lực tài chính của mình.
Để thị
trường tín chỉ carbon hoạt động, phải hình thành các sàn giao dịch. Ở đó, những
tổ chức, doanh nghiệp không thể giảm phát thải khí nhà kính đạt mức hạn định buộc
họ phải mua tín chỉ carbon để bù đắp phần thiếu hụt. Ngược lại những doanh nghiệp
giảm thải vượt mức hoặc tạo phát thải ròng dương, có thể bán tín chỉ thừa để tạo
ra thu nhập. Quá trình trên được gọi là giao dịch tín chỉ carbon.
2. Thực trạng phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam
2.1. Thực trạng về khung khổ pháp lý về thị trường tín chỉ
carbon ở Việt Nam
Trong những
năm gần đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam ký Cam kết Net zero vào năm 2050 tại Hội nghị các bên tham gia Công ước của
Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), vấn đề phát triển thị
trường tín chỉ carbon đã bắt đầu được quan tâm. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã có
những chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon phát triển.
Có thể kể đến những quy định sau đây:
- Nghị định
số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ
phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone. Tại mục 2 của Nghị định này, Chính
phủ đã xác định việc tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước với các
nội dung: (1) Đối
trượng tham gia thị trường carbon trong nước; (2) Lộ trình phát triển, thời điểm triển
khai thị trường carbon trong nước; (3) Xác nhận tín chỉ carbon, hạn ngạch phát
thải khí nhà kính được giao dịch trên sàn giao dịch của thị trường carbon trong
nước; (4) Trao
đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon trên thị trường carbon
trong nước; (5)
Đăng ký chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon; (6) Trách nhiệm phát
triển thị trường carbon trong nước[2].
Theo Nghị
định 06/2022/NĐ-CP, lộ trình phát triển thị trường tín chỉ carbon ở nước ta được
chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 được
xác định đến hết năm 2027 gồm các nội dung: (i) Xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon,
hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng
quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ các-bon; (ii) Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi,
bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế
trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của
pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên; (iii)
Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm
2025; (iv) Triển
khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị
trường carbon.
Giai đoạn 2 từ năm
2028, gồm các nội dung: (i)
Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028; (ii) Quy định các hoạt
động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực
và thế giới.
- Quyết
định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 02 năm 2022 về Ban hành danh mục lĩnh vực,
cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Theo quyết định
này, có 1912 cơ sở phải thực hiện kiểm kê và là những cơ sở đầu tiên tham gia
vào thị trường tín chỉ carbon trong nước.
- Luật Bảo
vệ môi trường (2022): Tại Điều 139 của Luật đã quy định về Tổ chức phát triển
thị trường tín chỉ carbon bao gồm các nội dung như: Các hoạt động trao đổi hạn
ngạch phát thải khí nhà kính trên thị trường tín chỉ carbon trong nước; Quyền
tham gia thị trường tín chỉ carbon của các cơ sở phát thải khí nhà kính; Căn cứ
xác định hạn ngạch phát thải; quyền mua và bán tín chỉ carbon đối với các cơ sở
thiếu hoặc thừa hạn ngạch; Quyền đấu giá, vay mượn tín chỉ carbon đối với các
cơ sở được phép tham gia vào thị trường tín chỉ carbon[4].
Thông tư
số 17/2022/TT – BTNMT, ngày 15 tháng 11 năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã đưa ra Quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực quản lý chất thải. Đây là kỹ thuật
đánh giá mức phát thải, làm căn cứ để xác định hạn ngạch của các chủ thể tham
gia mua bán tín chỉ carbon trên thị trường.
Với những
văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, đặc biệt là Nghị định 06/2022/NĐ-CP, có thể
thấy những khung khổ pháp lý về thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam đã bắt đầu
hình thành, tạo điều kiện cho việc ra đời các tổ chức, đơn vị tham gia trao đổi
mua bán tín chỉ carbon, thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon hình thành và phát
triển.
2.2. Thực trạng về tiềm năng phát triển thị trường tín chỉ
carbon
Sau khi
Chính phủ xây dựng và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật, các dự án nằm
trong khuôn khổ cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism – CDM) thuộc
thị trường tín chỉ carbon bắt buộc đã ra đời và phát triển.
Theo thống
kê của Trung tâm con người và thiên nhiên (2023) thì tính đến hết tháng 11/2022
đã có gần 29,4 triệu tín chỉ carbon được phát hành, thuộc 276 dự án nằm trong
khuôn khổ của CDM thuộc thị trường carbon bắt buộc, trong đó các dự án thủy điện
chiếm 204 dự án[5].
Bên cạnh
thị trường bắt buộc, thị trường tín chỉ carbon tự nguyện cũng được hình thành,
với 32 dự án và có tổng số 5,75 triệu tín chỉ carbon được phát hành sử dụng
tiêu chuẩn vàng (Gold Standards). Các dự án thủy điện vẫn chiếm nhiều nhất
(22/32 dự án). Ngoài ra, thị trường tự nguyện cũng có 27 dự án sử dụng tiêu chuẩn
VCS (verified carbon standards) với tổng số 1,35 triệu tín chỉ carbon đã được
phát hành. Tương tự, các dự án mảng thủy điện vẫn chiếm số lượng lớn nhất (16 dự
án).
Ngoài
các dự án đã hình thành, Việt Nam đang còn nhiều tiềm năng to lớn trong việc sản
xuất tín chỉ carbon. Với tổng diện tích rừng khoảng 14,7 triệu ha, độ che phủ đạt
42%, mỗi năm rừng nước ta có thể hấp thụ trung bình gần 70 triệu tấn dioxit
carbon (CO2), tương đương với việc sản xuất 70 triệu tín chỉ carbon. Bên cạnh
đó, việc chuyển đổi xanh trong sản xuất nông nghiệp cũng là tiềm năng của việc
cắt giảm phát thải khí nhà kính. Việc áp dụng các phương thức canh tác mới
trong trồng lúa như canh tác ngập khô, ướt khô sẽ giảm được việc phát thải khí
mê tan (CH4) qua rễ và thân cây lúa. Điều này cho phép chúng ta có thể đưa ra
thị trường khoảng 50-60 triệu tín chỉ carbon mỗi năm[5].
Như vậy,
Việt Nam đang có một tiềm năng to lớn trong việc phát hành tín chỉ carbon. Những
nguồn chính để thu hồi khí nhà kính hoặc cắt giảm phát thải ở nước ta chủ yếu
có được từ các lĩnh vực như thủy điện, phát triển rừng và sản xuất nông nghiệp
xanh, đặc biệt là sản xuất lúa. Với tiềm năng sẵn có, chúng ta cần thêm những
giải pháp tháo gỡ những rào cản để thị trường tín chỉ carbon phát triển.
3. Những khó khăn, thách thức và giải pháp phát triển thị trường tín chỉ
carbon ở Việt Nam
3.1. Những khó khăn, thách thức
Mặc dù
có những thuận lợi, song việc phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam vẫn
còn gặp phải những rào cản không nhỏ. Có thể kể đến những khó khăn, thách thức
sau đây:
Thứ nhất, khung
khổ pháp lý chưa hoàn thiện. Tuy Việt Nam đã ký các thỏa thuận về giảm phát thải,
cam kết Net zero vào năm 2050, song những quy định của pháp luật về thị trường
tín chỉ carbon vẫn còn thiếu hụt và chưa hoàn thiện. Các quy định cụ thể về chứng
nhận tín chỉ carbon, phương pháp giám sát, kiểm tra, thống kê và xác nhận giảm
phát thải vẫn chưa rõ ràng. Điều này đã gây ra những khó khăn trong việc xây dựng
và vận hành thị trường tín chỉ carbon minh bạch, hiệu quả, khiến cho các tổ chức
và doanh nghiệp gặp khó khăn khi tham gia thị trường.
Thứ hai, sự thiếu
minh bạch và chuẩn mực trong các dự án giảm phát thải. Một trong những vấn đề lớn
của phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam là khó khăn trong việc xác
định và chứng nhận các dự án giảm phát thải. Mặc dù đã có những quy định, tiêu
chuẩn quốc tế nhưng quá trình kiểm tra và cấp tín chỉ carbon vẫn gặp nhiều khó
khăn. Các dự án giảm phát thải trong nông nghiệp, bảo vệ rừng, sản xuất năng lượng...
vẫn chưa được chứng nhận đầy đủ và thiếu cơ chế giám sát hiệu quả.
Thứ ba, thiếu
hụt các nguồn lực để triển khai. Để kiểm tra, giám sát, thống kê và cấp chứng
nhận cho các dự án giảm phát thải, đòi hỏi phải có các điều kiện về phương tiện
công nghệ cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này. Tuy nhiên,
đối với Việt Nam, thống kê, đo lường phát thải khí nhà kính vẫn là một lĩnh vực
mới mẻ, chưa được trang bị những điều kiện về nguồn lực thực hiện. Bên cạnh đó,
các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có kinh nghiệm trong việc tham gia
thị trường tín chỉ carbon, đặc biệt là việc thiết kế, triển khai và giám sát
các dự án giảm phát thải.
Thứ tư, cơ chế
khuyến khích tài chính chưa đủ mạnh. Mặc dù đã có một số chính sách hỗ trợ của
Nhà nước nhưng cơ chế tài chính cho các dự án giảm phát thải vẫn chưa rõ ràng,
thiếu hấp dẫn. Các doanh nghiệp vẫn gặp những khó khăn trong việc huy động vốn
cho các dự án như năng lượng sạch, chuyển đổi xanh, bảo vệ môi trường…Việc phát
triển thị trường tín chỉ carbon cho đến nay vẫn chưa đủ để tạo ra sự “bảo lãnh”
cho các dự án giảm phát thải.
Thứ năm, ý thức,
nhận thức của các doanh nghiệp và xã hội còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp và nhà
quản lý và người sản xuất vẫn chưa nhận thức được đầy đủ lợi ích của việc tham
gia thị trường tín chỉ carbon, họ vẫn còn vướng mắc, mâu thuẫn giữa lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài, chưa có tầm nhìn dài hạn trong quản lý phát triển và
chiến lược kinh doanh hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
3.2. Một số giải pháp phát triển thị trường tín chỉ carbon ở
Việt Nam
Để phát
triển thị trường tín chỉ carbon theo lộ trình mà Nghị định số 06/2022/NĐ-CP,
ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ đã xác định, trong thời gian tới, chúng
ta cần tập trung giải quyết các vấn đề sau đây:
Một là, xây dựng
và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon. Để thị trường
tín chỉ carbon hoạt động hiệu quả, chúng ta cần phải thiết lập khung khổ pháp
lý rõ ràng, minh bạch, đó là các luật, chính sách liên quan đến tín chỉ carbon.
Luật tín chỉ carbon cần làm rõ những vấn đề như: quy trình phát hành tín chỉ
carbon; quy định về kiểm tra, giám sát; hệ thống giao dịch tín chỉ, giá cả và
thanh toán. Đồng thời, Luật này cần quy định rõ cơ chế xử lý các vi phạm trong
việc phát hành và giao dịch tín chỉ carbon. Bên cạnh đó, khung khổ pháp lý cho
thị trường tín chỉ carbon cần quy định về tiêu chuẩn đo lường, báo cáo, và xác
nhận giảm phát thải đảm bảo tính công bằng, minh bạch cũng như các quy định về
quy trình cấp phép tín chỉ carbon.
Hai là, tạo cơ
chế hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thị trường tín chỉ carbon. Để khuyến khích
doanh nghiệp tham gia thị trường tín chỉ carbon, cần thiết lập các cơ chế rõ
ràng và thiết thực. Đó là các quỹ hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện
các dự án giảm phát thải; các chính sách khuyến khích và ưu đãi, bao gồm chính
sách hỗ trợ tài chính, ưu đãi về thuế, lãi suất vay ngân hàng, các thủ tục hành
chính cho các tổ chức thực hiện các dự án giảm phát thải, khuyến khích việc
chuyển đổi xanh trong các ngành sản xuất.
Ba là, phát
triển các sàn giao dịch tín chỉ carbon. Để thị trường tín chỉ carbon vận hành
hiệu quả thì cần có các sàn giao dịch tín chỉ carbon để những tổ chức, doanh
nghiệp dễ dàng theo dõi sự biến động của cung – cầu, giá cả trên thị trường
cũng như việc tham gia mua bán, trao đổi hàng hóa tín chỉ carbon. Các sàn giao
dịch tín chỉ carbon cần xây dựng được một nền tảng giao dịch trực tuyến có hệ
thống bảo mật, kiểm soát, đảm bảo sự minh bạch và công bằng cũng như điều tiết
số tín chỉ carbon được phát hành. Bên cạnh sàn giao dịch trong nước, thị trường
tín chỉ carbon còn cần đến sự kết nối với các thị trường tín chỉ carbon quốc tế
nhằm giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia sàn giao dịch quốc tế và thu hút
các doanh nghiệp nước ngoài tham gia trị trường trong nước.
Bốn là, xây dựng
cơ chế giám sát và kiểm tra định kỳ. Để đảm bảo thị trường tín chỉ carbon hoạt
động minh bạch, hiệu quả cần có hệ thống giám sát và kiểm tra định kỳ. Đó là việc
thành lập các cơ quan giám sát độc lập để kiểm tra các dự án giảm phát thải
cũng như giám sát số lượng tín chỉ carbon được cấp phát đúng, đủ, không có gian
lận thương mại và thao túng thị trường.
Năm là, gấp rút
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ việc quản lý thị trường tín chỉ carbon. Để quản
lý và vận hành thị trường tín chỉ carbon, Việt Nam cần có những con người có
năng lực, am hiểu về lĩnh vực này. Trước mắt, cần gấp rút đào tạo nhân lực
trong các lĩnh vực như: đánh giá, xác minh các dự án giảm thải phát thải; vận
hành thị trường tín chỉ carbon; pháp luật và những quy định quốc tế về thị trường
tín chỉ carbon; ứng dụng công nghệ hiện đại trong các dự án giảm phát thải...
Kết luận
Phát triển
thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết và khách quan hiện
nay. Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam đòi hỏi một chiến lược
toàn diện và các giải pháp cụ thể từ việc xây dựng khung khổ pháp lý, cơ chế
khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển các sàn giao dịch đến việc xây dựng
cơ chế giám sát và tham gia các sáng kiến quốc tế. Chỉ khi thực hiện đồng bộ
các giải pháp này, chúng ta mới có thể phát triển một thị trường tín chỉ carbon
bền vững và hiệu quả góp phần vào thực hiện cam kết Net zero và phát triển bền
vững.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ
Tài nguyên và Môi trường (2022), Thông tư số 17/2022/TT –
BTNMT, ngày 15 tháng 11 năm 2022.
[2] Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2002), Nghị
định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07 tháng 01 năm 2022 về Quy định giảm nhẹ phát thải
khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4] Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Bảo vệ
môi trường (2022).
[5] Thủ
tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 02 năm 2022
về Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải
khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.
[6] Tạ
Đình Thi (2024), Phát triển thị trường tín
chỉ carbon: kinh nghiệm quốc tế và cơ hội, thách thức, triển vọng đối với Việt
Nam, https://quochoi.vn