Thứ Năm, ngày 23/01/2025, 16:32

Thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và giải pháp phát triển

Phạm Tú Tài - Nguyễn Vĩnh Thanh
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) Phát triển thị trường tín chỉ carbon là một giải pháp tạo động lực thúc đẩy việc thu hồi khí có nguồn gốc carbon, hướng tới mục tiêu Việt Nam đạt Net zero vào năm 2050. Tuy nhiên, thị trường tín chỉ carbon là vấn đề còn mới cả về lý luận lẫn thực tiễn ở Việt Nam. Bài viết khái quát một số vấn đề lý luận về tín chỉ carbon và thị trường tín chỉ carbon, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam trong thời gian tới.

Tọa đàm "Nguồn nhân lực cho thị trường tín chỉ carbon" (ảnh news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net zero). Để đạt được mục tiêu nói trên, trong thời gian tới, chúng ta cần ban hành các chính sách, thực hiện các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân giảm phát thải khí nhà kính, thu hồi carbon. Để thúc đẩy nhanh việc giảm phát thải ròng thì phát triển thị trường tín chỉ carbon được coi là một giải pháp mang tính bền vững. Khi thị trường tín chỉ carbon hoạt động hiệu quả, hành vi cắt giảm phát thải, mỗi hoạt động có khả năng thu hồi carbon của các tổ chức, cá nhân hứa hẹn tăng thêm một khoản thu nhập cho họ. Đây là một trong những động lực kinh tế để Việt Nam thực hiện lộ trình Net zero. Để thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam, trong thời gian tới, chúng ta cần phải hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách và thực hiện những giải pháp phù hợp để sàn giao dịch tín chỉ carbon đi vào hoạt động hiệu quả.

1. Một số vấn đề lý luận về thị trường tín chỉ carbon

1.1. Khái niệm tín chỉ carbon và thị trường tín chỉ carbon

- Tín chỉ Carbon (carbon credit) là giấy phép được quyền phát thải carbon dioxide (CO2) hoặc các khí nhà kính khác vào khí quyển. Mỗi tín chỉ carbon đại diện cho một tấn CO2 hoặc khí nhà kính tương đương đã được giảm bớt, thu giữ hoặc tránh phát thải vào môi trường nhờ các dự án bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hoặc các biện pháp cải tiến quy trình sản xuất.

- Tiêu chuẩn vàng (Gold Standard) là một trong những hệ thống chứng nhận uy tín nhất trong lĩnh vực giảm phát thải carbon và bảo vệ môi trường. Tiêu chuẩn này được thiết lập để đảm bảo rằng, các dự án giảm phát thải khí nhà kính không chỉ giúp giảm lượng phát thải mà còn mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng và môi trường.

- Tiêu chuẩn VCS (Verifed Carbon Standard) là tiêu chuẩn quốc tế được công nhận rộng rãi trong lĩnh vực tín chỉ carbon. Mục tiêu chính của tiêu chuẩn này là xác minh và chứng nhận tính hợp lệ của các dự án giảm phát thải khí nhà kính.

- Thị trường tín chỉ carbon là một hệ thống kinh tế cho phép các quốc gia, doanh nghiệp và tổ chức mua bán quyền phát thải khí nhà kính, với mục tiêu giảm tổng lượng phát thải carbon dioxide (CO2) và các khí gây hiệu ứng nhà kính khác.

1.2. Nguyên tắc hoạt động và mô hình thị trường tín chỉ carbon

Thị trường tín chỉ carbon hoạt động dựa trên nguyên tắc "cap and trade" (giới hạn và giao dịch). Trong hệ thống này, Chính phủ đặt ra một giới hạn (cap) cho tổng lượng phát thải và cấp phát tín chỉ carbon cho các tổ chức.

Thị trường tín chỉ carbon thường hoạt động theo hai mô hình: thị trường bắt buộc và thị trường tự nguyện.

Thị trường bắt buộc hoạt động dựa trên các cam kết quốc tế hoặc các quy định pháp lý trong nước. Đó là việc các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các quốc gia đặt ra những quy định đối với các doanh nghiệp có mức phát thải cao phải cam kết giảm phát thải khí nhà kính và có thể sử dụng tín chỉ carbon như một công cụ để hoàn thành cam kết của mình.

Thị trường tự nguyện là loại thị trường không bị ràng buộc bởi các quy định bắt buộc mà do các doanh nghiệp tự nguyện tham gia, thể hiện trách nhiệm của họ với việc đối với việc giảm thiểu tác động môi trường. Trong thị trường này, các doanh nghiệp có thể tự quyết định mua tín chỉ từ các dự án giảm phát thải khí nhà kính như trồng rừng, phát triển năng lượng tái tạo, hoặc các sáng kiến bảo vệ môi trường khác.

1.3. Cơ chế hoạt động của thị trường tín chỉ carbon

Sau khi thiết lập mức phát thải giới hạn (Cap-and-Trade), các tín chỉ carbon sẽ được phân bố hoặc cấp phát cho các doanh nghiệp, quốc gia hoặc tổ chức theo tỷ lệ nhất định. Có hai phương thức phân bổ phổ biến loại tín chỉ này là: phân bổ miễn phí và phân bổ qua đấu giá tín chỉ.

Phân phối miễn phí, tín chỉ carbon được cung cấp miễn phí cho các tổ chức hoặc quốc gia dựa trên những tiêu chí cụ thể như mức phát thải, năng lực giảm phát thải hoặc tình trạng phát triển của nền kinh tế. Chi phí cho những tín chỉ carbon miễn phí này thường là do người tiêu dùng cuối cùng chi trả thông qua giá bán sản phẩm hàng hóa và dịch vụ hoặc được chi trả bởi Chính phủ hay cộng đồng xã hội.

Đối với phương thức đấu giá tín chỉ, tín chỉ carbon có thể được bán qua phiên đấu giá. Các tổ chức có thể tham gia đấu giá để mua tín chỉ carbon dựa trên nhu cầu và năng lực tài chính của mình.

Để thị trường tín chỉ carbon hoạt động, phải hình thành các sàn giao dịch. Ở đó, những tổ chức, doanh nghiệp không thể giảm phát thải khí nhà kính đạt mức hạn định buộc họ phải mua tín chỉ carbon để bù đắp phần thiếu hụt. Ngược lại những doanh nghiệp giảm thải vượt mức hoặc tạo phát thải ròng dương, có thể bán tín chỉ thừa để tạo ra thu nhập. Quá trình trên được gọi là giao dịch tín chỉ carbon.

2. Thực trạng phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam

2.1. Thực trạng về khung khổ pháp lý về thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam ký Cam kết Net zero vào năm 2050 tại Hội nghị các bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), vấn đề phát triển thị trường tín chỉ carbon đã bắt đầu được quan tâm. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon phát triển. Có thể kể đến những quy định sau đây:

- Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone. Tại mục 2 của Nghị định này, Chính phủ đã xác định việc tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước với các nội dung: (1) Đối trượng tham gia thị trường carbon trong nước; (2) Lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước; (3) Xác nhận tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính được giao dịch trên sàn giao dịch của thị trường carbon trong nước; (4) Trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon trên thị trường carbon trong nước; (5) Đăng ký chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon; (6) Trách nhiệm phát triển thị trường carbon trong nước[2].

Theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP, lộ trình phát triển thị trường tín chỉ carbon ở nước ta được chia thành hai giai đoạn:

Giai đoạn 1 được xác định đến hết năm 2027 gồm các nội dung: (i) Xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ các-bon; (ii) Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (iii) Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; (iv) Triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon.

Giai đoạn 2 từ năm 2028, gồm các nội dung: (i) Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028; (ii) Quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.

- Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 02 năm 2022 về Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Theo quyết định này, có 1912 cơ sở phải thực hiện kiểm kê và là những cơ sở đầu tiên tham gia vào thị trường tín chỉ carbon trong nước.

- Luật Bảo vệ môi trường (2022): Tại Điều 139 của Luật đã quy định về Tổ chức phát triển thị trường tín chỉ carbon bao gồm các nội dung như: Các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính trên thị trường tín chỉ carbon trong nước; Quyền tham gia thị trường tín chỉ carbon của các cơ sở phát thải khí nhà kính; Căn cứ xác định hạn ngạch phát thải; quyền mua và bán tín chỉ carbon đối với các cơ sở thiếu hoặc thừa hạn ngạch; Quyền đấu giá, vay mượn tín chỉ carbon đối với các cơ sở được phép tham gia vào thị trường tín chỉ carbon[4].

Thông tư số 17/2022/TT – BTNMT, ngày 15 tháng 11 năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra Quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực quản lý chất thải. Đây là kỹ thuật đánh giá mức phát thải, làm căn cứ để xác định hạn ngạch của các chủ thể tham gia mua bán tín chỉ carbon trên thị trường.

Với những văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, đặc biệt là Nghị định 06/2022/NĐ-CP, có thể thấy những khung khổ pháp lý về thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành, tạo điều kiện cho việc ra đời các tổ chức, đơn vị tham gia trao đổi mua bán tín chỉ carbon, thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon hình thành và phát triển.

2.2. Thực trạng về tiềm năng phát triển thị trường tín chỉ carbon

Sau khi Chính phủ xây dựng và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật, các dự án nằm trong khuôn khổ cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism – CDM) thuộc thị trường tín chỉ carbon bắt buộc đã ra đời và phát triển.

Theo thống kê của Trung tâm con người và thiên nhiên (2023) thì tính đến hết tháng 11/2022 đã có gần 29,4 triệu tín chỉ carbon được phát hành, thuộc 276 dự án nằm trong khuôn khổ của CDM thuộc thị trường carbon bắt buộc, trong đó các dự án thủy điện chiếm 204 dự án[5].

Bên cạnh thị trường bắt buộc, thị trường tín chỉ carbon tự nguyện cũng được hình thành, với 32 dự án và có tổng số 5,75 triệu tín chỉ carbon được phát hành sử dụng tiêu chuẩn vàng (Gold Standards). Các dự án thủy điện vẫn chiếm nhiều nhất (22/32 dự án). Ngoài ra, thị trường tự nguyện cũng có 27 dự án sử dụng tiêu chuẩn VCS (verified carbon standards) với tổng số 1,35 triệu tín chỉ carbon đã được phát hành. Tương tự, các dự án mảng thủy điện vẫn chiếm số lượng lớn nhất (16 dự án).

Ngoài các dự án đã hình thành, Việt Nam đang còn nhiều tiềm năng to lớn trong việc sản xuất tín chỉ carbon. Với tổng diện tích rừng khoảng 14,7 triệu ha, độ che phủ đạt 42%, mỗi năm rừng nước ta có thể hấp thụ trung bình gần 70 triệu tấn dioxit carbon (CO2), tương đương với việc sản xuất 70 triệu tín chỉ carbon. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi xanh trong sản xuất nông nghiệp cũng là tiềm năng của việc cắt giảm phát thải khí nhà kính. Việc áp dụng các phương thức canh tác mới trong trồng lúa như canh tác ngập khô, ướt khô sẽ giảm được việc phát thải khí mê tan (CH4) qua rễ và thân cây lúa. Điều này cho phép chúng ta có thể đưa ra thị trường khoảng 50-60 triệu tín chỉ carbon mỗi năm[5].

Như vậy, Việt Nam đang có một tiềm năng to lớn trong việc phát hành tín chỉ carbon. Những nguồn chính để thu hồi khí nhà kính hoặc cắt giảm phát thải ở nước ta chủ yếu có được từ các lĩnh vực như thủy điện, phát triển rừng và sản xuất nông nghiệp xanh, đặc biệt là sản xuất lúa. Với tiềm năng sẵn có, chúng ta cần thêm những giải pháp tháo gỡ những rào cản để thị trường tín chỉ carbon phát triển.

3. Những khó khăn, thách thức và giải pháp phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam

3.1. Những khó khăn, thách thức

Mặc dù có những thuận lợi, song việc phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam vẫn còn gặp phải những rào cản không nhỏ. Có thể kể đến những khó khăn, thách thức sau đây:

Thứ nhất, khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện. Tuy Việt Nam đã ký các thỏa thuận về giảm phát thải, cam kết Net zero vào năm 2050, song những quy định của pháp luật về thị trường tín chỉ carbon vẫn còn thiếu hụt và chưa hoàn thiện. Các quy định cụ thể về chứng nhận tín chỉ carbon, phương pháp giám sát, kiểm tra, thống kê và xác nhận giảm phát thải vẫn chưa rõ ràng. Điều này đã gây ra những khó khăn trong việc xây dựng và vận hành thị trường tín chỉ carbon minh bạch, hiệu quả, khiến cho các tổ chức và doanh nghiệp gặp khó khăn khi tham gia thị trường.

Thứ hai, sự thiếu minh bạch và chuẩn mực trong các dự án giảm phát thải. Một trong những vấn đề lớn của phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam là khó khăn trong việc xác định và chứng nhận các dự án giảm phát thải. Mặc dù đã có những quy định, tiêu chuẩn quốc tế nhưng quá trình kiểm tra và cấp tín chỉ carbon vẫn gặp nhiều khó khăn. Các dự án giảm phát thải trong nông nghiệp, bảo vệ rừng, sản xuất năng lượng... vẫn chưa được chứng nhận đầy đủ và thiếu cơ chế giám sát hiệu quả.

Thứ ba, thiếu hụt các nguồn lực để triển khai. Để kiểm tra, giám sát, thống kê và cấp chứng nhận cho các dự án giảm phát thải, đòi hỏi phải có các điều kiện về phương tiện công nghệ cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, thống kê, đo lường phát thải khí nhà kính vẫn là một lĩnh vực mới mẻ, chưa được trang bị những điều kiện về nguồn lực thực hiện. Bên cạnh đó, các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có kinh nghiệm trong việc tham gia thị trường tín chỉ carbon, đặc biệt là việc thiết kế, triển khai và giám sát các dự án giảm phát thải.

Thứ tư, cơ chế khuyến khích tài chính chưa đủ mạnh. Mặc dù đã có một số chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhưng cơ chế tài chính cho các dự án giảm phát thải vẫn chưa rõ ràng, thiếu hấp dẫn. Các doanh nghiệp vẫn gặp những khó khăn trong việc huy động vốn cho các dự án như năng lượng sạch, chuyển đổi xanh, bảo vệ môi trường…Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon cho đến nay vẫn chưa đủ để tạo ra sự “bảo lãnh” cho các dự án giảm phát thải.

Thứ năm, ý thức, nhận thức của các doanh nghiệp và xã hội còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp và nhà quản lý và người sản xuất vẫn chưa nhận thức được đầy đủ lợi ích của việc tham gia thị trường tín chỉ carbon, họ vẫn còn vướng mắc, mâu thuẫn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, chưa có tầm nhìn dài hạn trong quản lý phát triển và chiến lược kinh doanh hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

3.2. Một số giải pháp phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam

Để phát triển thị trường tín chỉ carbon theo lộ trình mà Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ đã xác định, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề sau đây:

Một là, xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon. Để thị trường tín chỉ carbon hoạt động hiệu quả, chúng ta cần phải thiết lập khung khổ pháp lý rõ ràng, minh bạch, đó là các luật, chính sách liên quan đến tín chỉ carbon. Luật tín chỉ carbon cần làm rõ những vấn đề như: quy trình phát hành tín chỉ carbon; quy định về kiểm tra, giám sát; hệ thống giao dịch tín chỉ, giá cả và thanh toán. Đồng thời, Luật này cần quy định rõ cơ chế xử lý các vi phạm trong việc phát hành và giao dịch tín chỉ carbon. Bên cạnh đó, khung khổ pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon cần quy định về tiêu chuẩn đo lường, báo cáo, và xác nhận giảm phát thải đảm bảo tính công bằng, minh bạch cũng như các quy định về quy trình cấp phép tín chỉ carbon.

Hai là, tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thị trường tín chỉ carbon. Để khuyến khích doanh nghiệp tham gia thị trường tín chỉ carbon, cần thiết lập các cơ chế rõ ràng và thiết thực. Đó là các quỹ hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án giảm phát thải; các chính sách khuyến khích và ưu đãi, bao gồm chính sách hỗ trợ tài chính, ưu đãi về thuế, lãi suất vay ngân hàng, các thủ tục hành chính cho các tổ chức thực hiện các dự án giảm phát thải, khuyến khích việc chuyển đổi xanh trong các ngành sản xuất.

Ba là, phát triển các sàn giao dịch tín chỉ carbon. Để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả thì cần có các sàn giao dịch tín chỉ carbon để những tổ chức, doanh nghiệp dễ dàng theo dõi sự biến động của cung – cầu, giá cả trên thị trường cũng như việc tham gia mua bán, trao đổi hàng hóa tín chỉ carbon. Các sàn giao dịch tín chỉ carbon cần xây dựng được một nền tảng giao dịch trực tuyến có hệ thống bảo mật, kiểm soát, đảm bảo sự minh bạch và công bằng cũng như điều tiết số tín chỉ carbon được phát hành. Bên cạnh sàn giao dịch trong nước, thị trường tín chỉ carbon còn cần đến sự kết nối với các thị trường tín chỉ carbon quốc tế nhằm giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia sàn giao dịch quốc tế và thu hút các doanh nghiệp nước ngoài tham gia trị trường trong nước.

Bốn là, xây dựng cơ chế giám sát và kiểm tra định kỳ. Để đảm bảo thị trường tín chỉ carbon hoạt động minh bạch, hiệu quả cần có hệ thống giám sát và kiểm tra định kỳ. Đó là việc thành lập các cơ quan giám sát độc lập để kiểm tra các dự án giảm phát thải cũng như giám sát số lượng tín chỉ carbon được cấp phát đúng, đủ, không có gian lận thương mại và thao túng thị trường.

Năm là, gấp rút đào tạo nguồn nhân lực phục vụ việc quản lý thị trường tín chỉ carbon. Để quản lý và vận hành thị trường tín chỉ carbon, Việt Nam cần có những con người có năng lực, am hiểu về lĩnh vực này. Trước mắt, cần gấp rút đào tạo nhân lực trong các lĩnh vực như: đánh giá, xác minh các dự án giảm thải phát thải; vận hành thị trường tín chỉ carbon; pháp luật và những quy định quốc tế về thị trường tín chỉ carbon; ứng dụng công nghệ hiện đại trong các dự án giảm phát thải...

Kết luận

Phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết và khách quan hiện nay. Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam đòi hỏi một chiến lược toàn diện và các giải pháp cụ thể từ việc xây dựng khung khổ pháp lý, cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển các sàn giao dịch đến việc xây dựng cơ chế giám sát và tham gia các sáng kiến quốc tế. Chỉ khi thực hiện đồng bộ các giải pháp này, chúng ta mới có thể phát triển một thị trường tín chỉ carbon bền vững và hiệu quả góp phần vào thực hiện cam kết Net zero và phát triển bền vững.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022), Thông tư số 17/2022/TT – BTNMT, ngày 15 tháng 11 năm 2022.

[2] Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07 tháng 01 năm 2022 về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường (2022).

[5] Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 02 năm 2022 về Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.

[6] Tạ Đình Thi (2024), Phát triển thị trường tín chỉ carbon: kinh nghiệm quốc tế và cơ hội, thách thức, triển vọng đối với Việt Nam, https://quochoi.vn

Đọc thêm

Hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

(GDLL) - Hoàn thiện thể chế về kinh tế số là một nội dung rất cấp thiết nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát khung lý thuyết thể chế về kinh tế số, bài viết phân tích thực trạng nội dung này ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - TRẦN HOÀI THU

(GDLL) - Việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, nắm rõ được điều đó, cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Nam Định quan tâm, chỉ đạo, tổ chức và triển khai hiệu quả. Bài viết trình bày nội dung, thành tựu và hạn chế của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

Tác giả: TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Tác giả: GIANG THỊ HUYỀN

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Tác giả: VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.