Thứ Năm, ngày 23/01/2025, 16:35

Thúc đẩy tiêu dùng xanh nhằm xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam

Nguyễn Thị Lan Phương
Học viện Ngân hàng.

(GDLL) Phát triển kinh tế xanh là xu hướng của nền kinh tế hiện tại và trong tương lai. Trước tình hình biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá nghiêm trọng, phương thức tăng trưởng kinh tế xanh chính là mô hình tăng trưởng bền vững của các nước trên thế giới hướng tới. Tiêu dùng là giai đoạn tiếp nối của quá trình sản xuất, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Bài viết đánh giá thực trạng hoạt động tiêu dùng xanh ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp thúc đẩy xu hướng tiêu dùng xanh nhằm xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam.

 

Thành phố Hồ Chí Minh phát động Chiến dịch tiêu dùng xanh lần thứ 15 (ảnh news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên các yếu tố năng suất và công nghệ đang được Đảng và Chính phủ ưu tiên thực hiện là thời cơ thuận lợi để Việt Nam phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước thực trạng là tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự sụt giảm mạnh về tài nguyên thiên nhiên và gia tăng ô nhiễm môi trường. Xây dựng văn hóa tiêu dùng xanh, văn minh, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên là một trong những giải pháp hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh và sự phát triển bền vững.

1. Kinh tế xanh và tiêu dùng xanh

Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế xanh - Green Economy, trong đó, Liên minh châu Âu (EU) cho rằng “Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng thông minh, bền vững và công bằng”; nhóm Liên minh kinh tế xanh định nghĩa, kinh tế xanh là “nền kinh tế tạo ra chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả mọi người trong giới hạn sinh thái của Trái đất”; Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã đưa ra khái niệm về kinh tế xanh: “Là nền kinh tế mang lại phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái”[2; tr.13]. Đây được coi là định nghĩa chính xác và đầy đủ nhất về kinh tế xanh.

Kinh tế xanh được đo lường trên ba chỉ số cơ bản: (i) Các chỉ số kinh tế: chỉ số về tỉ lệ đầu tư, tỉ lệ sản lượng và việc làm trong các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững. (ii) Các chỉ số môi trường: chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô nhiễm ở mức độ ngành hoặc toàn nền kinh tế. (iii) Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ và phúc lợi xã hội.

Sự kết hợp giữa 3 thành tố: Kinh tế - xã hội - môi trường đạt trạng thái cân bằng sẽ thỏa mãn tính bền vững. Trong nền kinh tế xanh, nhân tố môi trường có khả năng tạo ra tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Ngoài ra, khi sinh kế của một bộ phận người dân có mức sống dưới mức nghèo khổ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, là những đối tượng dễ bị tổn thương do tác động của thiên tai cũng như sự biến đổi khí hậu, việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cũng góp phần cải thiện sự công bằng xã hội, và có thể được xem như là một hướng đi tốt để phát triển bền vững.

Tiêu dùng là giai đoạn tiếp nối của quá trình sản xuất, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Hiện nay, quan niệm về tiêu dùng không chỉ là đối tượng kinh tế, mà còn mở rộng ra cả xã hội và môi trường – tiêu dùng xanh. Tiêu dùng xanh là việc mua, sử dụng phẩm thân thiện với môi trường mà không gây nguy cơ cho sức khỏe con người và không đe dọa các chức năng hay sự đa dạng của các hệ sinh thái tự nhiên. Tiêu dùng xanh là một giải pháp mang lại sự cân bằng cho xã hội và môi trường thông qua hành vi có trách nhiệm của con người từ đó, góp phần bảo vệ các nguồn tài nguyên cho các thế hệ tương lai và nâng cao chất lượng sống của con người. Do đó, tiêu dùng xanh là một yếu tố không thể tách rời phát triển bền vững.

Kinh tế xanh và tiêu dùng xanh là hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiêu dùng xanh là một trong những động lực của quá trình sản xuất, nó góp phần kích thích cho kinh tế xanh phát triển. Xuất phát từ sự gia tăng mối quan tâm đối với các sản phẩm xanh trên toàn cầu, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm xanh thân thiện với môi trường và thể hiện nỗ lực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giảm các tác động đến môi trường liên quan đến việc sản xuất chứ không giải quyết được các tác động đến môi trường liên quan đến việc lựa chọn, sử dụng và thải loại sản phẩm của người tiêu dùng. Chính vì thế, tiêu dùng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường; sự hợp tác giữa các nhà sản xuất, người tiêu dùng và các bên liên quan khác có thể mang lại các giải pháp bền vững hơn trong hệ thống sản xuất - tiêu thụ. Trong bối cảnh đó, tích hợp nỗ lực của các bên liên quan là vấn đề then chốt để thúc đẩy tiêu dùng xanh.

Sản xuất và tiêu dùng bền vững tập trung chủ yếu vào việc tăng hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên trong quá trình sản xuất và tiêu thụ. Kinh tế xanh cùng với tiêu dùng xanh đều cùng hướng tới mục tiêu chung là đẩy nhanh quá trình tiến tới phát triển bền vững. Trên thực tế, để đạt được mục tiêu trên, cần có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa một bên là nền kinh tế xanh và bên kia là tiêu dùng xanh. Sự hỗ trợ đó được thể hiện qua các hình thức can thiệp mang tính vĩ mô và vi mô, hay các yêu cầu thay đổi trong chính sách và quy định về đầu tư và hoạt động kinh doanh, cũng như thay đổi hành vi trong xã hội.

2. Hoạt động tiêu dùng xanh ở Việt Nam hiện nay

Xu hướng tiêu dùng xanh đang phát triển nhanh trên thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Việt Nam đang triển khai một số hoạt động liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững, trong đó tiêu dùng xanh cũng bắt đầu được quan tâm nhiều hơn. Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như: Chương trình cấp Nhãn sinh thái cho sản phẩm thân thiện với môi trường năm 2013 (Bộ Tài nguyên và Môi trường; Nhãn tiết kiệm năng lượng (Bộ Công thương). Đặc biệt Quyết định số 1393 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chiến lược Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn 2050” đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hoạch định chiến lược tiêu dùng xanh, xây dựng nền kinh tế xanh ở tầm vĩ mô. Với quan điểm: "Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế; Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam” [1].

Chiến lược Tăng trưởng xanh là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các chính sách liên quan đến tiêu dùng xanh ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Theo đó, xanh hóa sản xuất, thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa sạch thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghệ xanh, nông nghiệp xanh...; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững, kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi.

Như vậy, chuyển đổi mô hình tiêu dùng theo hướng xanh và bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm, chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước và là một nội dung căn bản của mục tiêu phát triển ở Việt Nam hiện nay. Các chương trình, hành động về tiêu dùng xanh được phát triển ở nhiều địa phương trên cả nước, bước đầu đã đạt những kết quả tốt, thu hút đông đảo người dân tham gia. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến môi trường, coi trọng hơn hành vi “mua bán” thân thiện với môi trường. Xuất phát từ sự gia tăng mối quan tâm đối với các sản phẩm xanh của người tiêu dùng, nhiều công ty đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm xanh thân thiện với môi trường và thể hiện nỗ lực bảo vệ môi trường. Người tiêu dùng đặt niềm tin vào các mặt hàng có nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng sản phẩm rõ ràng. Bởi vậy, chất lượng “xanh” sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị phần tốt hơn. Việc phát triển thương hiệu gắn với yếu tố “xanh”. Do đó, xu hướng sản xuất và sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường dự báo sẽ tăng trưởng mạnh trong thời gian tới.

Để cạnh tranh trên thị trường, xu hướng “xanh hóa” trong xây dựng thương hiệu ngày càng phổ biến, nhiều doanh nghiệp nỗ lực đầu tư sản xuất nhằm cho ra đời những sản phẩm đảm bảo yếu tố “xanh” và “sạch”, xây dựng thương hiệu xanh gắn với phát triển bền vững. Ở góc độ doanh nghiệp, một số doanh nghiệp ý thức được việc đẩy mạnh hoạt động kích cầu tiêu dùng xanh là hết sức quan trọng, nhằm làm cho khách hàng hiểu rõ hơn và thực hiện hành vi tiêu dùng xanh. Xu hướng tiêu dùng xanh cũng kéo theo sự xuất hiện của các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch như: Sói Biển, Bác Tôm, Home Food, Hano Farm, nhằm đáp ứng nhu cầu mua sản phẩm sạch, rõ nguồn gốc của người dân. Nhiều cửa hàng trà sữa, cà phê chuyển sang kinh doanh theo xu hướng xanh bằng cách sử dụng ống hút tre hoặc inox thay cho ống hút nhựa; hạn chế sử dụng các loại nước đóng chai có bao bì khó phân hủy; chỉ sử dụng túi giấy, gói lá thay vì sử dụng túi nylon.

Có thể nói, xu hướng tiêu dùng xanh đã và đang nhận được sự đồng thuận rất lớn trong cộng đồng, từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất, cung ứng sản phầm cho đến người tiêu dùng. Không những vậy, người tiêu dùng còn có động thái thực hiện việc quay lưng, tẩy chay sử dụng sản phẩm của các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường khi doanh nghiệp bị người dân tố cáo hoặc bị các cơ quan chức năng công bố. Dù một xu hướng tiêu dùng mới, tích cực đã được hình thành, song tiêu dùng xanh được đánh giá mới chỉ tác động trên phạm vi hẹp, vì vậy tính bền vững chưa cao. Việt Nam chưa có công cụ đủ mạnh để điều chỉnh hành vi sản xuất và tiêu dùng xanh. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi từ nhận thức đến hành động của người tiêu dùng bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: Phong tục, tập quán, văn hóa, trình độ học vấn, tình trạng cư trú và khả năng kinh tế cũng như thói quen tiêu dùng.

3. Một số giải pháp thúc đẩy xu hướng tiêu dùng xanh ở Việt Nam

Một là, xây dựng chính sách hướng tới thúc đẩy hoạt động “tiêu dùng xanh”.

Một khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế xanh và xử lý nghiêm các hình thức sản xuất và tiêu dùng gây hại là rất cần thiết. Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tiêu dùng xanh, từ đó tạo ra động lực khuyến khích và nguồn cung cho nhu cầu “tiêu dùng xanh” trên thị trường. Đồng thời, cần đưa ra chính sách khuyến khích nhà sản xuất các sản phẩm, dịch vụ xanh. Đẩy mạnh xanh hóa sản xuất, ưu tiên các chính sách và kế hoạch hành động phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, phát triển công nghệ xanh, cơ chế phát triển sạch. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp xanh, hỗ trợ về giá đối với các sản phẩm, dịch vụ xanh và tăng cường tiếp thị quảng cáo trong tiêu thụ các sản phẩm xanh. Tổ chức chương trình đào tạo về sản xuất xanh cho lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào các mô hình doanh nghiệp xanh; thực hiện các chương trình kích cầu tiêu dùng xanh đối với các sản phẩm, nhằm đưa các sản phẩm xanh vào tiêu dùng và nâng cao thói quen tiêu dùng thân thiện môi trường của con người.

Hai là, tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức giá trị về môi trường và ý thức bảo vệ môi trường đối với người tiêu dùng.

Nâng cao nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng xanh đối với cá nhân, gia đình và cộng đồng. Giá trị môi trường của người tiêu dùng là cần thiết để thúc đẩy tiêu dùng xanh. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều đến môi trường, nhưng cần thúc đẩy giáo dục nhiều hơn nữa, tăng cường sự nhận thức về môi trường, giá trị về môi trường. Với sự gia tăng về nhu cầu và sự tăng cường nhận thức về bảo vệ môi trường, người tiêu dùng sẽ có xu hướng gia tăng ý định và hành vi tiêu dùng xanh. Tuy nhiên, vẫn cần cải thiện nhận thức về tiêu dùng xanh thông qua các hoạt động xây dựng, nâng cao năng lực, sự hiểu biết và tạo ra các kênh tiếp thị thuận tiện hơn để gia tăng số lượng người tiêu dùng có thể mua sản phẩm xanh. Ngoài ra, người dân cần ý thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của tiêu dùng xanh đối với môi trường, sức khỏe của cá nhân, cộng đồng vì sự phát triển bền vững cho đời sau. Việc tăng cường tiêu dùng và mua sắm xanh đi kèm với các giải pháp nâng cao nhận thức về môi trường. Đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích của các sản phẩm xanh, chất lượng và giá cả cạnh tranh trên thị trường của các sản phẩm xanh cũng như lợi ích thiết thực trong bảo vệ môi trường đến cộng đồng, người tiêu dùng, người sản xuất để thu hút lực lượng tiêu thụ sản phẩm xanh và nâng cao nhận thức về tiêu dùng xanh. Đồng thời, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà sản xuất xanh, sản phẩm xanh và người tiêu dùng xanh.

Ba là, đổi mới công nghệ trong sản xuất, phát triển của doanh nghiệp xanh.

Nền kinh tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, các bon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường... Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh là một yêu cầu cấp thiết. Người tiêu dùng đặt niềm tin vào các mặt hàng có nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng sản phẩm rõ ràng. Bởi vậy, chất lượng “xanh” sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị phần tốt hơn. Việc phát triển thương hiệu gắn với yếu tố “xanh” - sử dụng nguyên vật liệu, công nghệ thân thiện, đưa ra các sản phẩm “sạch”, bảo đảm môi trường ngày càng có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Theo xu hướng đó, nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt cơ hội này để đẩy mạnh thương hiệu và nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách xây dựng niềm tin vào nhãn hàng thông qua các cam kết về trách nhiệm xã hội và môi trường, đặt vấn đề sức khỏe người tiêu dùng vào trọng tâm của việc phát triển sản phẩm, gắn phát triển sản phẩm với cam kết bền vững. Do đó, cần phát triển và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp xanh.

Bốn là, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã nhận thấy tính ưu việt của sản xuất nông nghiệp hữu cơ đối với sức khỏe con người, môi trường sinh thái, góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững nên thời gian qua cũng đã có nhiều doanh nghiệp, hộ nông dân đầu tư và quyết tâm sản xuất ra các sản phẩm đạt chuẩn hữu cơ. Một số sản phẩm hữu cơ đã có chỗ đứng vững trên thị trường như rau sạch, chè hữu cơ, thịt sạch, tôm sạch... tuy nhiên, có thể nói nông nghiệp hữu cơ vẫn còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, không đáng kể trong tổng sản lượng nông nghiệp. Thực phẩm hữu cơ khác với thực phẩm sạch ở chỗ thực phẩm sạch sử dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu trong mức cho phép theo đúng quy trình, liều lượng; sản phẩm ra thị trường có dư lượng hóa chất dưới mức cho phép, không gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Còn thực phẩm hữu cơ bao gồm rau củ quả, trái cây, ngũ cốc, thịt, sữa, trứng, mật ong... thu từ nguồn sản xuất không sử dụng bất kỳ hóa chất nào.

Năm là, xây dựng hệ thống đánh giá tin cậy về sản phẩm xanh nhãn sinh thái – “nhãn xanh Việt Nam” sẽ là mục tiêu hướng tới của doanh nghiệp và thói quen tiêu dùng của người tiêu dùng. Doanh nghiệp hướng tới nhãn sinh thái để bảo đảm thị phần kèm theo đó là lợi nhuận, người tiêu dùng hướng tới nhãn sinh thái để bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng. Khi người tiêu dùng có yêu cầu cao về chất lượng, mức độ an toàn đối với sức khỏe con người và môi trường sẽ trở thành động lực thúc đẩy nhà sản xuất, kinh doanh cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường, các sản phẩm được gắn nhãn sinh thái. Gắn nhãn xanh không chỉ cung cấp thông tin từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng mà còn mang lại một hoạt động kinh doanh có đạo đức và bền vững.

Kết luận

Tăng trưởng xanh phải là tăng trưởng do con người và vì con người, phát triển hài hòa đời sống xã hội với môi trường tự nhiên, góp phần giải quyết yêu cầu tăng trưởng hợp lý với giảm nghèo bền vững, bảo đảm sự bình đẳng trong cơ hội phát triển cho mỗi người và điều kiện thụ hưởng hợp lý cho mỗi người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong phát triển. Tiêu dùng xanh đang là xu hướng của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Phát triển tiêu dùng xanh được coi như là một yếu tố quan trọng trong xây dựng nền kinh tế xanh để hướng tới phát triển bền vững. Để thúc đẩy hoạt động các mô hình sản xuất xanh, tiêu dùng xanh cần có sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp sản xuất, nhà cung cấp cũng như những thay đổi trong thói quen mua sắm của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần những cơ chế, chính sách, chương trình hỗ trợ của Nhà nước của các cơ quan chức năng, các địa phương trong việc khuyến khích mô hình sản xuất, tiêu dùng xanh.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, Phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”, Hà Nội.

[2] UNEP (2011), Hướng tới nền kinh tế xanh – Lộ trình cho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo, Bản dịch của Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội 2011.

Đọc thêm

Hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

(GDLL) - Hoàn thiện thể chế về kinh tế số là một nội dung rất cấp thiết nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát khung lý thuyết thể chế về kinh tế số, bài viết phân tích thực trạng nội dung này ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - TRẦN HOÀI THU

(GDLL) - Việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, nắm rõ được điều đó, cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Nam Định quan tâm, chỉ đạo, tổ chức và triển khai hiệu quả. Bài viết trình bày nội dung, thành tựu và hạn chế của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

Tác giả: TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Tác giả: GIANG THỊ HUYỀN

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Tác giả: VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.