
Thành phố Hồ Chí Minh phát động Chiến dịch tiêu dùng xanh lần thứ 15 (ảnh news.vnanet.vn)
Đặt vấn
đề
Việt Nam
đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều
sâu, dựa trên các yếu tố năng suất và công nghệ đang được Đảng và Chính phủ ưu
tiên thực hiện là thời cơ thuận lợi để Việt Nam phát triển kinh tế, nâng cao mức
sống của người dân. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước thực trạng là tăng trưởng
kinh tế gắn liền với sự sụt giảm mạnh về tài nguyên thiên nhiên và gia tăng ô
nhiễm môi trường. Xây dựng văn hóa tiêu dùng xanh, văn minh, hài hòa và thân
thiện với thiên nhiên là một trong những giải pháp hướng tới xây dựng nền kinh
tế xanh và sự phát triển bền vững.
1. Kinh tế xanh và tiêu dùng xanh
Trên thế
giới có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế xanh - Green Economy, trong đó,
Liên minh châu Âu (EU) cho rằng “Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng thông
minh, bền vững và công bằng”; nhóm Liên minh kinh tế xanh định nghĩa, kinh tế xanh
là “nền kinh tế tạo ra chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả mọi người trong
giới hạn sinh thái của Trái đất”; Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP)
đã đưa ra khái niệm về kinh tế xanh: “Là nền kinh tế mang lại phúc lợi cho con
người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường và
suy giảm sinh thái”[2; tr.13].
Đây được coi là định nghĩa chính xác và đầy đủ nhất về kinh tế xanh.
Kinh tế
xanh được đo lường trên ba chỉ số cơ bản: (i) Các chỉ số kinh tế: chỉ số về tỉ
lệ đầu tư, tỉ lệ sản lượng và việc làm trong các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn
bền vững. (ii) Các chỉ số môi trường: chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô
nhiễm ở mức độ ngành hoặc toàn nền kinh tế. (iii) Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ
và phúc lợi xã hội.
Sự kết hợp
giữa 3 thành tố: Kinh tế - xã hội - môi trường đạt trạng thái cân bằng sẽ thỏa
mãn tính bền vững. Trong nền kinh tế xanh, nhân tố môi trường có khả năng tạo
ra tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Ngoài ra, khi sinh kế của một bộ phận
người dân có mức sống dưới mức nghèo khổ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, là những
đối tượng dễ bị tổn thương do tác động của thiên tai cũng như sự biến đổi khí hậu,
việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cũng góp phần cải thiện sự công bằng xã hội,
và có thể được xem như là một hướng đi tốt để phát triển bền vững.
Tiêu
dùng là giai đoạn tiếp nối của quá trình sản xuất, nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người. Hiện nay, quan niệm về tiêu dùng không chỉ là đối tượng kinh tế, mà
còn mở rộng ra cả xã hội và môi trường – tiêu dùng xanh. Tiêu dùng xanh là việc
mua, sử dụng phẩm thân thiện với môi trường mà không gây nguy cơ cho sức khỏe
con người và không đe dọa các chức năng hay sự đa dạng của các hệ sinh thái tự
nhiên. Tiêu dùng xanh là một giải pháp mang lại sự cân bằng cho xã hội và môi
trường thông qua hành vi có trách nhiệm của con người từ đó, góp phần bảo vệ
các nguồn tài nguyên cho các thế hệ tương lai và nâng cao chất lượng sống của
con người. Do đó, tiêu dùng xanh là một yếu tố không thể tách rời phát triển bền
vững.
Kinh tế
xanh và tiêu dùng xanh là hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiêu dùng xanh
là một trong những động lực của quá trình sản xuất, nó góp phần kích thích cho
kinh tế xanh phát triển. Xuất phát từ sự gia tăng mối quan tâm đối với các sản
phẩm xanh trên toàn cầu, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm
xanh thân thiện với môi trường và thể hiện nỗ lực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
các doanh nghiệp chỉ có thể làm giảm các tác động đến môi trường liên quan đến
việc sản xuất chứ không giải quyết được các tác động đến môi trường liên quan đến
việc lựa chọn, sử dụng và thải loại sản phẩm của người tiêu dùng. Chính vì thế,
tiêu dùng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về
môi trường; sự hợp tác giữa các nhà sản xuất, người tiêu dùng và các bên liên
quan khác có thể mang lại các giải pháp bền vững hơn trong hệ thống sản xuất -
tiêu thụ. Trong bối cảnh đó, tích hợp nỗ lực của các bên liên quan là vấn đề
then chốt để thúc đẩy tiêu dùng xanh.
Sản xuất
và tiêu dùng bền vững tập trung chủ yếu vào việc tăng hiệu quả của việc sử dụng
tài nguyên trong quá trình sản xuất và tiêu thụ. Kinh tế xanh cùng với tiêu
dùng xanh đều cùng hướng tới mục tiêu chung là đẩy nhanh quá trình tiến tới
phát triển bền vững. Trên thực tế, để đạt được mục tiêu trên, cần có sự hỗ trợ
lẫn nhau giữa một bên là nền kinh tế xanh và bên kia là tiêu dùng xanh. Sự hỗ
trợ đó được thể hiện qua các hình thức can thiệp mang tính vĩ mô và vi mô, hay
các yêu cầu thay đổi trong chính sách và quy định về đầu tư và hoạt động kinh
doanh, cũng như thay đổi hành vi trong xã hội.
2. Hoạt động tiêu dùng xanh ở Việt Nam hiện nay
Xu hướng
tiêu dùng xanh đang phát triển nhanh trên thế giới, Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế đó. Việt Nam đang triển khai một số hoạt động liên quan đến sản xuất
và tiêu dùng bền vững, trong đó tiêu dùng xanh cũng bắt đầu được quan tâm nhiều
hơn. Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như: Chương trình cấp Nhãn
sinh thái cho sản phẩm thân thiện với môi trường năm 2013 (Bộ Tài nguyên và Môi
trường; Nhãn tiết kiệm năng lượng (Bộ Công thương). Đặc biệt Quyết định số 1393
của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chiến lược Tăng trưởng xanh thời kỳ 2011
- 2020 và tầm nhìn 2050” đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hoạch định chiến
lược tiêu dùng xanh, xây dựng nền kinh tế xanh ở tầm vĩ mô. Với quan điểm: "Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững,
đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực
hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Tăng trưởng xanh phải do con người
và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của người dân; Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư
vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát
thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích
tăng trưởng kinh tế; Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ
hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam” [1].
Chiến lược
Tăng trưởng xanh là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các chính sách liên
quan đến tiêu dùng xanh ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Theo đó, xanh hóa sản
xuất, thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa sạch thông qua rà soát, điều chỉnh
những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến
khích phát triển công nghệ xanh, nông nghiệp xanh...; xanh hóa lối sống và thúc
đẩy tiêu dùng bền vững, kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương tiện
văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi.
Như vậy,
chuyển đổi mô hình tiêu dùng theo hướng xanh và bền vững đã trở thành đường lối,
quan điểm, chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước và là một nội dung căn bản
của mục tiêu phát triển ở Việt Nam hiện nay. Các chương trình, hành động về
tiêu dùng xanh được phát triển ở nhiều địa phương trên cả nước, bước đầu đã đạt
những kết quả tốt, thu hút đông đảo người dân tham gia. Người tiêu dùng ngày
càng quan tâm đến môi trường, coi trọng hơn hành vi “mua bán” thân thiện với
môi trường. Xuất phát từ sự gia tăng mối quan tâm đối với các sản phẩm xanh của
người tiêu dùng, nhiều công ty đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm xanh thân thiện
với môi trường và thể hiện nỗ lực bảo vệ môi trường. Người tiêu dùng đặt niềm
tin vào các mặt hàng có nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng sản phẩm rõ ràng. Bởi vậy,
chất lượng “xanh” sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh giúp các doanh nghiệp chiếm
lĩnh thị phần tốt hơn. Việc phát triển thương hiệu gắn với yếu tố “xanh”. Do
đó, xu hướng sản xuất và sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường dự báo sẽ
tăng trưởng mạnh trong thời gian tới.
Để cạnh
tranh trên thị trường, xu hướng “xanh hóa” trong xây dựng thương hiệu ngày càng
phổ biến, nhiều doanh nghiệp nỗ lực đầu tư sản xuất nhằm cho ra đời những sản
phẩm đảm bảo yếu tố “xanh” và “sạch”, xây dựng thương hiệu xanh gắn với phát
triển bền vững. Ở góc độ doanh nghiệp, một số doanh nghiệp ý thức được việc đẩy
mạnh hoạt động kích cầu tiêu dùng xanh là hết sức quan trọng, nhằm làm cho
khách hàng hiểu rõ hơn và thực hiện hành vi tiêu dùng xanh. Xu hướng tiêu dùng
xanh cũng kéo theo sự xuất hiện của các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch như: Sói
Biển, Bác Tôm, Home Food, Hano Farm, nhằm đáp ứng nhu cầu mua sản phẩm sạch, rõ
nguồn gốc của người dân. Nhiều cửa hàng trà sữa, cà phê chuyển sang kinh doanh
theo xu hướng xanh bằng cách sử dụng ống hút tre hoặc inox thay cho ống hút nhựa;
hạn chế sử dụng các loại nước đóng chai có bao bì khó phân hủy; chỉ sử dụng túi
giấy, gói lá thay vì sử dụng túi nylon.
Có thể
nói, xu hướng tiêu dùng xanh đã và đang nhận được sự đồng thuận rất lớn trong cộng
đồng, từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất, cung ứng sản phầm cho đến người
tiêu dùng. Không những vậy, người tiêu dùng còn có động thái thực hiện việc
quay lưng, tẩy chay sử dụng sản phẩm của các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường
khi doanh nghiệp bị người dân tố cáo hoặc bị các cơ quan chức năng công bố. Dù
một xu hướng tiêu dùng mới, tích cực đã được hình thành, song tiêu dùng xanh được
đánh giá mới chỉ tác động trên phạm vi hẹp, vì vậy tính bền vững chưa cao. Việt
Nam chưa có công cụ đủ mạnh để điều chỉnh hành vi sản xuất và tiêu dùng xanh.
Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi từ nhận thức đến hành động của người tiêu
dùng bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: Phong tục, tập quán, văn hóa, trình độ học
vấn, tình trạng cư trú và khả năng kinh tế cũng như thói quen tiêu dùng.
3. Một số giải pháp thúc đẩy xu hướng tiêu dùng xanh ở Việt Nam
Một là, xây dựng
chính sách hướng tới thúc đẩy hoạt động “tiêu dùng xanh”.
Một
khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế xanh và xử
lý nghiêm các hình thức sản xuất và tiêu dùng gây hại là rất cần thiết. Nhà nước
cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tiêu dùng xanh, từ đó tạo ra động lực
khuyến khích và nguồn cung cho nhu cầu “tiêu dùng xanh” trên thị trường. Đồng
thời, cần đưa ra chính sách khuyến khích nhà sản xuất các sản phẩm, dịch vụ
xanh. Đẩy mạnh xanh hóa sản xuất, ưu tiên các chính sách và kế hoạch hành động
phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, phát
triển công nghệ xanh, cơ chế phát triển sạch. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu
đãi và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp xanh, hỗ trợ về giá đối với các sản
phẩm, dịch vụ xanh và tăng cường tiếp thị quảng cáo trong tiêu thụ các sản phẩm
xanh. Tổ chức chương trình đào tạo về sản xuất xanh cho lực lượng lao động trực
tiếp tham gia vào các mô hình doanh nghiệp xanh; thực hiện các chương trình
kích cầu tiêu dùng xanh đối với các sản phẩm, nhằm đưa các sản phẩm xanh vào
tiêu dùng và nâng cao thói quen tiêu dùng thân thiện môi trường của con người.
Hai là, tăng cường
tuyên truyền nâng cao nhận thức giá trị về môi trường và ý thức bảo vệ môi trường
đối với người tiêu dùng.
Nâng cao
nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng xanh đối với cá nhân,
gia đình và cộng đồng. Giá trị môi trường của người tiêu dùng là cần thiết để
thúc đẩy tiêu dùng xanh. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều đến môi trường,
nhưng cần thúc đẩy giáo dục nhiều hơn nữa, tăng cường sự nhận thức về môi trường,
giá trị về môi trường. Với sự gia tăng về nhu cầu và sự tăng cường nhận thức về
bảo vệ môi trường, người tiêu dùng sẽ có xu hướng gia tăng ý định và hành vi
tiêu dùng xanh. Tuy nhiên, vẫn cần cải thiện nhận thức về tiêu dùng xanh thông
qua các hoạt động xây dựng, nâng cao năng lực, sự hiểu biết và tạo ra các kênh
tiếp thị thuận tiện hơn để gia tăng số lượng người tiêu dùng có thể mua sản phẩm
xanh. Ngoài ra, người dân cần ý thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của tiêu dùng
xanh đối với môi trường, sức khỏe của cá nhân, cộng đồng vì sự phát triển bền vững
cho đời sau. Việc tăng cường tiêu dùng và mua sắm xanh đi kèm với các giải pháp
nâng cao nhận thức về môi trường. Đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích của các sản
phẩm xanh, chất lượng và giá cả cạnh tranh trên thị trường của các sản phẩm
xanh cũng như lợi ích thiết thực trong bảo vệ môi trường đến cộng đồng, người
tiêu dùng, người sản xuất để thu hút lực lượng tiêu thụ sản phẩm xanh và nâng
cao nhận thức về tiêu dùng xanh. Đồng thời, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà sản
xuất xanh, sản phẩm xanh và người tiêu dùng xanh.
Ba là, đổi mới
công nghệ trong sản xuất, phát triển của doanh nghiệp xanh.
Nền kinh
tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, các bon thấp, tăng trưởng xanh, đầu
tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường... Thực
tế công nghệ sản xuất ở Việt nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ
cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế
xanh là một yêu cầu cấp thiết. Người tiêu dùng đặt niềm tin vào các mặt hàng có
nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng sản phẩm rõ ràng. Bởi vậy, chất lượng “xanh” sẽ
trở thành lợi thế cạnh tranh giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị phần tốt hơn.
Việc phát triển thương hiệu gắn với yếu tố “xanh” - sử dụng nguyên vật liệu,
công nghệ thân thiện, đưa ra các sản phẩm “sạch”, bảo đảm môi trường ngày càng
có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Theo xu hướng
đó, nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt cơ hội này để đẩy mạnh thương hiệu và nâng
cao hiệu quả kinh doanh bằng cách xây dựng niềm tin vào nhãn hàng thông qua các
cam kết về trách nhiệm xã hội và môi trường, đặt vấn đề sức khỏe người tiêu
dùng vào trọng tâm của việc phát triển sản phẩm, gắn phát triển sản phẩm với
cam kết bền vững. Do đó, cần phát triển và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp
xanh.
Bốn là, hướng tới
xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã nhận thấy tính ưu việt của sản xuất
nông nghiệp hữu cơ đối với sức khỏe con người, môi trường sinh thái, góp phần
phát triển nền nông nghiệp bền vững nên thời gian qua cũng đã có nhiều doanh
nghiệp, hộ nông dân đầu tư và quyết tâm sản xuất ra các sản phẩm đạt chuẩn hữu
cơ. Một số sản phẩm hữu cơ đã có chỗ đứng vững trên thị trường như rau sạch,
chè hữu cơ, thịt sạch, tôm sạch... tuy nhiên, có thể nói nông nghiệp hữu cơ vẫn
còn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, không đáng kể trong tổng sản lượng nông nghiệp.
Thực phẩm hữu cơ khác với thực phẩm sạch ở chỗ thực phẩm sạch sử dụng phân bón
vô cơ, thuốc trừ sâu trong mức cho phép theo đúng quy trình, liều lượng; sản phẩm
ra thị trường có dư lượng hóa chất dưới mức cho phép, không gây hại cho sức khỏe
người tiêu dùng. Còn thực phẩm hữu cơ bao gồm rau củ quả, trái cây, ngũ cốc, thịt,
sữa, trứng, mật ong... thu từ nguồn sản xuất không sử dụng bất kỳ hóa chất nào.
Năm là, xây dựng
hệ thống đánh giá tin cậy về sản phẩm xanh nhãn sinh thái – “nhãn xanh Việt
Nam” sẽ là mục tiêu hướng tới của doanh nghiệp và thói quen tiêu dùng của người
tiêu dùng. Doanh nghiệp hướng tới nhãn sinh thái để bảo đảm thị phần kèm theo
đó là lợi nhuận, người tiêu dùng hướng tới nhãn sinh thái để bảo đảm an toàn
trong quá trình sử dụng. Khi người tiêu dùng có yêu cầu cao về chất lượng, mức
độ an toàn đối với sức khỏe con người và môi trường sẽ trở thành động lực thúc
đẩy nhà sản xuất, kinh doanh cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường,
các sản phẩm được gắn nhãn sinh thái. Gắn nhãn xanh không chỉ cung cấp thông
tin từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng mà còn mang lại một hoạt động kinh
doanh có đạo đức và bền vững.
Kết luận
Tăng trưởng xanh phải là tăng
trưởng do con người và vì con người, phát triển hài hòa đời sống xã hội với môi
trường tự nhiên, góp phần giải quyết yêu cầu tăng trưởng hợp lý với giảm nghèo
bền vững, bảo đảm sự bình đẳng trong cơ hội phát triển cho mỗi người và điều kiện
thụ hưởng hợp lý cho mỗi người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
dân trong phát triển. Tiêu dùng xanh đang là xu hướng của các quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Phát triển tiêu dùng xanh được coi như là một yếu tố
quan trọng trong xây dựng nền kinh tế xanh để hướng tới phát triển bền vững. Để
thúc đẩy hoạt động các mô hình sản xuất xanh, tiêu dùng xanh cần có sự nỗ lực từ
phía các doanh nghiệp sản xuất, nhà cung cấp cũng như những thay đổi trong thói
quen mua sắm của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần những cơ chế, chính sách,
chương trình hỗ trợ của Nhà nước của các cơ quan chức năng, các địa phương
trong việc khuyến khích mô hình sản xuất, tiêu dùng xanh.
Tài liệu tham khảo:
[1] Thủ
tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg
ngày 25/9/2012, Phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ
2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”, Hà Nội.
[2] UNEP
(2011), Hướng tới nền kinh tế xanh – Lộ trình cho phát triển
bền vững và xóa đói giảm nghèo, Bản dịch của Viện Chiến lược, Chính
sách Tài nguyên và Môi trường, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội 2011.