
Lãnh đạo TP Cần Thơ làm việc với Đoàn công tác Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh. Hai bên đã bàn thảo các vấn đề liên quan đến vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong giai đoạn mới (ảnh news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân
tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh
giành lại nền độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, triển
khai thực hiện đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế, đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm cho đất nước chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay.
Từ quá trình gần một thế kỷ lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm vô giá, trong đó có bài học
quan trọng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta quán
triệt, vận dụng vào lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, coi đây là một
bài học kinh nghiệm không thể thiếu trong lãnh đạo công cuộc Đổi mới.
1. Mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới – Kết quả
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại trong thời kỳ mới
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mở rộng quan hệ đối ngoại
là một đặc điểm nổi bật trong quan hệ quốc tế của nước Việt Nam mới - nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình
vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại là quá trình toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam tích
cực thực hiện quan điểm đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm của mình về
quan hệ quốc tế như sau: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có
nghĩa... Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp
hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”[6, tr.668]. Tháng 9-1947, trả lời phỏng vấn
của nhà báo Mỹ S.Elie Maissie, phóng viên hãng tin Mỹ International
New service, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố một cách khái quát chính
sách đối ngoại của Việt Nam là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai”[3, tr.256].
Cái gốc của sự phát triển, triết lý phát triển Hồ Chí Minh còn là ở cái tinh thần
quốc tế trên một tinh thần “Quan sơn muôn dặm một nhà/Vì trong bốn biển đều là
anh em”[5, tr.558].
Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh trước năm 1991
thì Việt Nam có quan hệ với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Kết hợp
được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại vì cuộc đấu tranh chống giặc ngoại
xâm của Nhân dân ta và thế giới đã tích cực lên án sự xâm lược của thế lực ngoại
bang và ủng hộ Việt Nam. Còn đối với thời kỳ Đổi mới, từ cuối năm 1991, Việt
Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại và thực sự đã tăng cường, tích cực mở rộng
trong các mối quan hệ trên thế giới. Đại hội VII năm (1991), Việt Nam khẳng định
mục tiêu: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa
trong quan hệ quốc tế, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chính
vì thế, thành quả của chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: cho đến nay, Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với hơn 193 nước, đáng chú ý là có tất cả các nước lớn; có
quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 nước: CHND Trung Hoa (năm 2008),
Liên bang Nga (năm 2012), Cộng hòa Ấn Độ (năm 2015), Đại Hàn dân quốc (năm
2022), Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tháng 9-2023), Nhật Bản (tháng 11-2023),
Ôxtơrâylia (năm 2024) và Cộng hòa Pháp (2024). Việt Nam đã có quan hệ ngoại
giao cao cấp với toàn bộ các thành viên, trong đó có 2 nước là quan hệ đặc biệt
(Lào, Campuchia). Việt Nam có quan hệ về mặt kinh tế với hơn 220 thị trường nước
ngoài, đặc biệt nhất là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngoài
ra còn là thành viên của nhiều diễn đàn quốc tế.
Với quan hệ quốc tế như vậy đã thực sự phát huy hiệu
quả vận dụng và phát sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại thời kỳ Đổi mới. Kinh nghiệm này đưa ra cho chúng ta một
thông điệp: tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế hơn nữa, nhất là trong hợp tác quốc
tế với nguyên tắc như Đảng đã lựa chọn, tạo nên sức mạnh tổng hợp từ cả trong
nước và ngoài nước. Đó là một kinh nghiệm rất quý báu được rút ra trong tiến
trình Đổi mới; là tài sản bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Nội lực có tính chất quyết định, ngoại lực là rất quan trọng
Trong mối quan hệ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ cũng coi sức mạnh
dân tộc là nguồn lực nội sinh giữa vai trò quyết định còn sức mạnh thời đại là
nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy được vai trò, tác dụng thông qua sức mạnh dân
tộc, thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, trong đấu tranh giải phóng dân tộc Hồ
Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu và cũng là phương châm của dân tộc Việt nam “Tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”[2, tr.320] trên tinh thần đó, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao chủ
trương của Người “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[4, tr.445] Trong lịch sử, Việt Nam không
có sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự như Pháp và Mỹ, nhưng vẫn chiến thắng. Đã
có biết bao các nhà quân sự, các chính khách, các nhà khoa học nước ngoài đã
nghiên cứu và lý giải cho điều này. Trong đó, người ta nghiêng về hoặc thuần
túy xét về mặt quân sự. Một số người đã lý giải đúng1. Sức mạnh tổng
hợp của nước ta không phải là con số cộng giản đơn trong số học, mà là kết hợp
cả thời - thế - lực, rồi cả sức mạnh từ truyền thống hun đúc từ lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước vô cùng oanh liệt có một không hai xét trong lịch
sử toàn nhân loại. Xét trong sức mạnh tổng hợp, thì chủ yếu từ nội lực, chính
đó đã làm cho Việt Nam có được vị thế như ngày nay. Nếu không có một Việt Nam lớn
mạnh sau gần 40 năm Đổi mới, thì chắc chắn rằng, rất ít nước đặt quan hệ ngoại
giao với nước ta. Nội lực vẫn luôn là yếu tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong giai đoạn mới của sự phát triển đất nước, sự kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại càng đặt ra những yêu cầu cấp thiết về bảo đảm nội lực. Mọi
sức mạnh bên ngoài, dù có mạnh đến mấy, nhưng nội lực bên trong yếu thì không
thể có sức mạnh tổng hợp tốt được. Điều này phản ánh rõ trong rất nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Trong tất cả các sức mạnh thì yếu tố sức mạnh con
người là căn bản nhất, cho nên, đánh giá về công cuộc Đổi mới gần 40 năm nay,
là nói tới kinh nghiệm thành công trên lĩnh vực này. Rõ ràng là nếu không có
con người Việt Nam thì không thể có thành tựu của gần 40 năm qua, tuy rằng, vẫn
còn một số người Việt Nam suy thoái và kém năng lực, phẩm chất. Nhưng, biện chứng
là ở chỗ, không vì sự hư hỏng mà lại phủ nhận thế hệ con người Việt Nam hiện
nay. Sức mạnh của dân tộc và của thời đại không thể kết hợp được với nhau và do
đó không thể mạnh lên được nếu chủ thể của chúng là hệ thống chính trị, hạt
nhân lãnh đạo của nó là Đảng, nếu con người Việt Nam không đáp ứng yêu cầu làm
chủ thể tạo nên sức mạnh. Do đó, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, chính sách quốc gia,... con người Việt Nam trong điều
kiện mới, trong đó con người Việt Nam có chất lượng cao, lại là những nhân tố
chủ thể mang tính quyết định. Điều này dẫn đến hệ quả theo lôgíc: hệ thống
chính trị, trong đó có Đảng cầm quyền, phải có tâm, có tầm, phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng; con người Việt Nam phải là con người vừa hồng, vừa chuyên,
có năng lực, phẩm chất, bản lĩnh đứng vào hàng ngũ những người tiên tiến của thời
đại. Đó là kinh nghiệm “xương máu”, “đắt giá” trong những năm Đổi mới để có thể
có cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong tất cả các thời
kỳ của Đổi mới, những chủ thể trong hệ thống chính trị, đặc biệt là Đảng, đã
chú ý đến tính phong phú trong các hình thức tập hợp lực lượng cách mạng. Tất cả
các hình thức đó đều có tính hướng đích, tập trung duy nhất vào một vectơ lực
hướng tới mục tiêu xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, một
đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhằm thực hiện “điều
mong muốn cuối cùng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”[6, tr.624].
Hiện nay và sắp tới, yêu cầu về tính đồng thuận, thống nhất tư tưởng và hành động
của các lực lượng cần được đẩy mạnh hơn, quyết không để những kẻ xấu làm ảnh hưởng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Kinh nghiệm gần 40 năm Đổi
mới cho thấy rằng, phải biến ngoại lực thành nội lực. Ngoại lực rất
quan trọng. Làm thế nào để đất nước đạt được mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra? Một câu trả lời đúng đắn nhất vẫn là phải tạo
ra và sử dụng tốt mọi sức mạnh, trong đó nội lực vẫn đóng vai trò quyết định đồng
thời phải tranh thủ ngoại lực biến ngoại lực thành nội lực. Thế cho nên, chủ
trương, quan điểm của Đảng về đối ngoại là bảo đảm các bên cùng có lợi phải được
vận dụng có kết quả tốt vào mọi lúc, mọi nơi trên tinh thần nhất quán dựa vào sức
mình là chính, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới,
tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc trên thế giới với phương châm nhất quán:
làm bạn với các nước không gây thù oán với một ai.
Phải tận dụng tất cả các
yếu tố sức mạnh bên trong và bên ngoài (thời đại), tức là tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, nguy cơ. Đề cập sức mạnh bên trong có tính quyết định, trước
hết cần chú ý xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vì Đảng có trong sạch, vững mạnh đầy bản
lĩnh chính trị và trí tuệ sáng suốt thì mới làm cơ sở chắc chắn cho việc kết hợp
đó. Do vậy, sự lãnh đạo, cầm quyền đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng
lợi cho công cuộc Đổi mới. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch,
vững mạnh, do đó, là nhiệm vụ gốc, tức là nhiệm vụ then chốt, như nhiều đại hội
toàn quốc của Đảng thời kỳ Đổi mới đã xác định. Do đó, có thể khẳng định rằng,
kinh nghiệm mấu chốt cho vấn đề này lại là ở bản thân chất lượng của công cuộc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Công việc này phải được làm thường xuyên có kết quả tốt
thì mới làm cho nội lực mạnh lên, và cũng do đó mới kết hợp được sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại mới.
3. Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết
Trong một thế giới rộng mở, lợi ích quốc gia càng phải
được đặt lên hàng đầu - đó là nguyên tắc “bất di bất dịch” trong Đổi mới và đồng
thời cũng là một kinh nghiệm quý báu cho thời kỳ mới. Đó cũng là tinh thần kiên
định mà các đại hội toàn quốc của Đảng ta, trong đó Đại hội XIII của Đảng đã khẳng
định: kinh nghiệm đặt lợi ích dân tộc lên trên hết tức là vừa không hy sinh lợi
ích của đất nước mình, vừa phải bảo đảm, tôn trọng lợi ích chính đáng của dân tộc
- quốc gia khác. Đó là quá trình hợp tác vì sự phát triển, các bên đều có lợi;
đặc biệt là không vì lợi ích của dân tộc - quốc gia mình mà xâm hại lợi ích của
dân tộc - quốc gia khác. Trong tình hình thế giới và trong nước với những thuận
lợi và thách thức đan xen có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay phải luôn luôn vận dụng kinh nghiệm
là đảm bảo nhất quán phương châm đặt lợi ích của đất nước, quốc gia - dân tộc
làm mục tiêu phát huy tối đa nội lực kết hợp ngoại lực để đưa đất nước vào kỷ
nguyên vươn mình của dân tộc.
4. Chú trọng tạo môi trường hòa bình để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại
Sức mạnh tổng hợp của đất nước yêu cầu phải tăng cường
lực lượng cách mạng trong mọi điều kiện có thể. Thế và lực của đất
nước là phải nắm lấy thời, thế để
tăng thêm sức mạnh của dân tộc. Việc bảo đảm an ninh quốc gia, độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được coi là nguyên tắc bất di bất dịch trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đó cũng là quá trình quán triệt thực hiện
tinh thần Đại hội XIII của Đảng: “Quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo
khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng
các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu”[1, tr.69]. Trong định
hướng phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”[1, tr.117-118]. Tất
cả những điều đó chỉ được thực hiện có kết quả tốt khi đất nước có được môi trường
hòa bình, ổn định, bảo đảm một môi trường “sạch” tạo điều kiện thuận lợi cho nước
ngoài đầu tư hoạt động ở Việt Nam. Việt Nam không bao giờ từ bỏ lập trường của
mình trong quan hệ với các nước láng giềng: hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; vẫn luôn luôn chủ trương thực thi Hiến chương Liên hiệp quốc, tôn trọng
Luật Biển năm 1982, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong mọi quan hệ
quốc tế. Bên cạnh đó cũng cần
phải đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực thù địch để bảo vệ những
thành quả của chúng ta đã đạt được trong thời kỳ Đổi mới.Các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn
nào để xuyên tạc thành quả của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời để kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại, Việt Nam cần thực hiện tốt đó là sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế để tạo
môi trường hòa bình, trên tinh thần đoàn kết cách mạng Việt Nam với phong trào
cách mạng thế giới. Nêu cao tinh thần chính nghĩa, tranh thủ sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với Việt Nam, nhưng cũng đồng thời Việt Nam phải luôn độc lập,
tự chủ và là thành viên có trách nhiệm trong các hoạt động quốc tế từ đó góp phần
vào việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển giữa
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Kết luận
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ khi
ra đời đến nay, Đảng luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách
rời của cách mạng thế giới. Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam giành được đều
gắn liền với sự phát triển lớn mạnh của các dòng thác cách mạng của thời đại, của
xu thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, hợp tác và phát triển.
Thực tế đã chứng minh, trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ
Đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, Đảng ta
quán triệt, vận dụng sáng tạo và đạt được nhưng thành tựu to lớn trong kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Hồ Chí Minh (2011),
Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,
tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia –
Sự thật, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia
– Sự thật, Hà Nội.
[6] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập,tập
15, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
[7] Karl Marx - Friedrich Engels (2018), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
1 Trong đó có Robert Strange
McNamara (1916-2009), nhà chính trị, Chủ tịch Tập đoàn Ford Motor Co, rồi làm Bộ
trưởng Bộ
Quốc phòng Mỹ nhiệm kỳ 1961-1963 và 1963-1968, sau đó thôi không
làm trong chính quyền Mỹ nữa mà làm Chủ tịch Ngân hàng Thế (1968-1981), người đã
viết một cuốn sách như là hồi ký, hồi tưởng 20 năm sau 30-4-1975; và phần nào
là “con cáo già”Henry Alfred Kissinger (1923-2023), Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và sau đó kiêm Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời tổng thống Richard Nixon và tổng thống Gerald Ford, người
đứng đầu đoàn đàm phán 4 bên tại Hội nghị đằng đắng 5 năm trời tại Clebe,
Paris, thủ đô Cộng hòa Pháp).