Thứ Năm, ngày 23/01/2025, 16:46

Một số kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới

Hà Văn Luyến - Mạch Quang Thắng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

(GDLL) Những kinh nghiệm được nêu trong bài viết này được rút ra từ thành công và cả từ chưa thành công trong quá trình toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện đường lối vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những kinh nghiệm đó có ý nghĩa rất quan trọng cho công cuộc Đổi mới hiện nay, nhất là nước ta đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Lãnh đạo TP Cần Thơ làm việc với Đoàn công tác Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Hai bên đã bàn thảo các vấn đề liên quan đến vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn mới (ảnh news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành lại nền độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, triển khai thực hiện đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm cho đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay.

Từ quá trình gần một thế kỷ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm vô giá, trong đó có bài học quan trọng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta quán triệt, vận dụng vào lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, coi đây là một bài học kinh nghiệm không thể thiếu trong lãnh đạo công cuộc Đổi mới.

1. Mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới – Kết quả vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời kỳ mới

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mở rộng quan hệ đối ngoại là một đặc điểm nổi bật trong quan hệ quốc tế của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là quá trình toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam tích cực thực hiện quan điểm đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm của mình về quan hệ quốc tế như sau: “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa... Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà[6, tr.668]. Tháng 9-1947, trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ S.Elie Maissie, phóng viên hãng tin Mỹ International New service, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố một cách khái quát chính sách đối ngoại của Việt Nam là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[3, tr.256]. Cái gốc của sự phát triển, triết lý phát triển Hồ Chí Minh còn là ở cái tinh thần quốc tế trên một tinh thần “Quan sơn muôn dặm một nhà/Vì trong bốn biển đều là anh em”[5, tr.558].

Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh trước năm 1991 thì Việt Nam có quan hệ với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại vì cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của Nhân dân ta và thế giới đã tích cực lên án sự xâm lược của thế lực ngoại bang và ủng hộ Việt Nam. Còn đối với thời kỳ Đổi mới, từ cuối năm 1991, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại và thực sự đã tăng cường, tích cực mở rộng trong các mối quan hệ trên thế giới. Đại hội VII năm (1991), Việt Nam khẳng định mục tiêu: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chính vì thế, thành quả của chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: cho đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 193 nước, đáng chú ý là có tất cả các nước lớn; có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 nước: CHND Trung Hoa (năm 2008), Liên bang Nga (năm 2012), Cộng hòa Ấn Độ (năm 2015), Đại Hàn dân quốc (năm 2022), Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tháng 9-2023), Nhật Bản (tháng 11-2023), Ôxtơrâylia (năm 2024) và Cộng hòa Pháp (2024). Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao cao cấp với toàn bộ các thành viên, trong đó có 2 nước là quan hệ đặc biệt (Lào, Campuchia). Việt Nam có quan hệ về mặt kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài, đặc biệt nhất là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngoài ra còn là thành viên của nhiều diễn đàn quốc tế.

Với quan hệ quốc tế như vậy đã thực sự phát huy hiệu quả vận dụng và phát sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại thời kỳ Đổi mới. Kinh nghiệm này đưa ra cho chúng ta một thông điệp: tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế hơn nữa, nhất là trong hợp tác quốc tế với nguyên tắc như Đảng đã lựa chọn, tạo nên sức mạnh tổng hợp từ cả trong nước và ngoài nước. Đó là một kinh nghiệm rất quý báu được rút ra trong tiến trình Đổi mới; là tài sản bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

2. Nội lực có tính chất quyết định, ngoại lực là rất quan trọng

Trong mối quan hệ kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ cũng coi sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh giữa vai trò quyết định còn sức mạnh thời đại là nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy được vai trò, tác dụng thông qua sức mạnh dân tộc, thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, trong đấu tranh giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu và cũng là phương châm của dân tộc Việt nam “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”[2, tr.320] trên tinh thần đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao chủ trương của Người “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[4, tr.445] Trong lịch sử, Việt Nam không có sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự như Pháp và Mỹ, nhưng vẫn chiến thắng. Đã có biết bao các nhà quân sự, các chính khách, các nhà khoa học nước ngoài đã nghiên cứu và lý giải cho điều này. Trong đó, người ta nghiêng về hoặc thuần túy xét về mặt quân sự. Một số người đã lý giải đúng1. Sức mạnh tổng hợp của nước ta không phải là con số cộng giản đơn trong số học, mà là kết hợp cả thời - thế - lực, rồi cả sức mạnh từ truyền thống hun đúc từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước vô cùng oanh liệt có một không hai xét trong lịch sử toàn nhân loại. Xét trong sức mạnh tổng hợp, thì chủ yếu từ nội lực, chính đó đã làm cho Việt Nam có được vị thế như ngày nay. Nếu không có một Việt Nam lớn mạnh sau gần 40 năm Đổi mới, thì chắc chắn rằng, rất ít nước đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Nội lực vẫn luôn là yếu tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn mới của sự phát triển đất nước, sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại càng đặt ra những yêu cầu cấp thiết về bảo đảm nội lực. Mọi sức mạnh bên ngoài, dù có mạnh đến mấy, nhưng nội lực bên trong yếu thì không thể có sức mạnh tổng hợp tốt được. Điều này phản ánh rõ trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Trong tất cả các sức mạnh thì yếu tố sức mạnh con người là căn bản nhất, cho nên, đánh giá về công cuộc Đổi mới gần 40 năm nay, là nói tới kinh nghiệm thành công trên lĩnh vực này. Rõ ràng là nếu không có con người Việt Nam thì không thể có thành tựu của gần 40 năm qua, tuy rằng, vẫn còn một số người Việt Nam suy thoái và kém năng lực, phẩm chất. Nhưng, biện chứng là ở chỗ, không vì sự hư hỏng mà lại phủ nhận thế hệ con người Việt Nam hiện nay. Sức mạnh của dân tộc và của thời đại không thể kết hợp được với nhau và do đó không thể mạnh lên được nếu chủ thể của chúng là hệ thống chính trị, hạt nhân lãnh đạo của nó là Đảng, nếu con người Việt Nam không đáp ứng yêu cầu làm chủ thể tạo nên sức mạnh. Do đó, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chính sách quốc gia,... con người Việt Nam trong điều kiện mới, trong đó con người Việt Nam có chất lượng cao, lại là những nhân tố chủ thể mang tính quyết định. Điều này dẫn đến hệ quả theo lôgíc: hệ thống chính trị, trong đó có Đảng cầm quyền, phải có tâm, có tầm, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; con người Việt Nam phải là con người vừa hồng, vừa chuyên, có năng lực, phẩm chất, bản lĩnh đứng vào hàng ngũ những người tiên tiến của thời đại. Đó là kinh nghiệm “xương máu”, “đắt giá” trong những năm Đổi mới để có thể có cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong tất cả các thời kỳ của Đổi mới, những chủ thể trong hệ thống chính trị, đặc biệt là Đảng, đã chú ý đến tính phong phú trong các hình thức tập hợp lực lượng cách mạng. Tất cả các hình thức đó đều có tính hướng đích, tập trung duy nhất vào một vectơ lực hướng tới mục tiêu xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhằm thực hiện “điều mong muốn cuối cùng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[6, tr.624]. Hiện nay và sắp tới, yêu cầu về tính đồng thuận, thống nhất tư tưởng và hành động của các lực lượng cần được đẩy mạnh hơn, quyết không để những kẻ xấu làm ảnh hưởng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Kinh nghiệm gần 40 năm Đổi mới cho thấy rằng, phải biến ngoại lực thành nội lực. Ngoại lực rất quan trọng. Làm thế nào để đất nước đạt được mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra? Một câu trả lời đúng đắn nhất vẫn là phải tạo ra và sử dụng tốt mọi sức mạnh, trong đó nội lực vẫn đóng vai trò quyết định đồng thời phải tranh thủ ngoại lực biến ngoại lực thành nội lực. Thế cho nên, chủ trương, quan điểm của Đảng về đối ngoại là bảo đảm các bên cùng có lợi phải được vận dụng có kết quả tốt vào mọi lúc, mọi nơi trên tinh thần nhất quán dựa vào sức mình là chính, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc trên thế giới với phương châm nhất quán: làm bạn với các nước không gây thù oán với một ai.

Phải tận dụng tất cả các yếu tố sức mạnh bên trong và bên ngoài (thời đại), tức là tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, nguy cơ. Đề cập sức mạnh bên trong có tính quyết định, trước hết cần chú ý xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vì Đảng có trong sạch, vững mạnh đầy bản lĩnh chính trị và trí tuệ sáng suốt thì mới làm cơ sở chắc chắn cho việc kết hợp đó. Do vậy, sự lãnh đạo, cầm quyền đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi cho công cuộc Đổi mới. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, do đó, là nhiệm vụ gốc, tức là nhiệm vụ then chốt, như nhiều đại hội toàn quốc của Đảng thời kỳ Đổi mới đã xác định. Do đó, có thể khẳng định rằng, kinh nghiệm mấu chốt cho vấn đề này lại là ở bản thân chất lượng của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Công việc này phải được làm thường xuyên có kết quả tốt thì mới làm cho nội lực mạnh lên, và cũng do đó mới kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mới.

3. Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết

Trong một thế giới rộng mở, lợi ích quốc gia càng phải được đặt lên hàng đầu - đó là nguyên tắc “bất di bất dịch” trong Đổi mới và đồng thời cũng là một kinh nghiệm quý báu cho thời kỳ mới. Đó cũng là tinh thần kiên định mà các đại hội toàn quốc của Đảng ta, trong đó Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: kinh nghiệm đặt lợi ích dân tộc lên trên hết tức là vừa không hy sinh lợi ích của đất nước mình, vừa phải bảo đảm, tôn trọng lợi ích chính đáng của dân tộc - quốc gia khác. Đó là quá trình hợp tác vì sự phát triển, các bên đều có lợi; đặc biệt là không vì lợi ích của dân tộc - quốc gia mình mà xâm hại lợi ích của dân tộc - quốc gia khác. Trong tình hình thế giới và trong nước với những thuận lợi và thách thức đan xen có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay phải luôn luôn vận dụng kinh nghiệm là đảm bảo nhất quán phương châm đặt lợi ích của đất nước, quốc gia - dân tộc làm mục tiêu phát huy tối đa nội lực kết hợp ngoại lực để đưa đất nước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

4. Chú trọng tạo môi trường hòa bình để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Sức mạnh tổng hợp của đất nước yêu cầu phải tăng cường lực lượng cách mạng trong mọi điều kiện có thể. Thế lực của đất nước là phải nắm lấy thời, thế để tăng thêm sức mạnh của dân tộc. Việc bảo đảm an ninh quốc gia, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được coi là nguyên tắc bất di bất dịch trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đó cũng là quá trình quán triệt thực hiện tinh thần Đại hội XIII của Đảng: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu”[1, tr.69]. Trong định hướng phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”[1, tr.117-118]. Tất cả những điều đó chỉ được thực hiện có kết quả tốt khi đất nước có được môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm một môi trường “sạch” tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài đầu tư hoạt động ở Việt Nam. Việt Nam không bao giờ từ bỏ lập trường của mình trong quan hệ với các nước láng giềng: hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; vẫn luôn luôn chủ trương thực thi Hiến chương Liên hiệp quốc, tôn trọng Luật Biển năm 1982, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong mọi quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó cũng cần phải đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực thù địch để bảo vệ những thành quả của chúng ta đã đạt được trong thời kỳ Đổi mới.Các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn nào để xuyên tạc thành quả của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời để kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Việt Nam cần thực hiện tốt đó là sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế để tạo môi trường hòa bình, trên tinh thần đoàn kết cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới. Nêu cao tinh thần chính nghĩa, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam, nhưng cũng đồng thời Việt Nam phải luôn độc lập, tự chủ và là thành viên có trách nhiệm trong các hoạt động quốc tế từ đó góp phần vào việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Kết luận

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời của cách mạng thế giới. Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam giành được đều gắn liền với sự phát triển lớn mạnh của các dòng thác cách mạng của thời đại, của xu thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, hợp tác và phát triển. Thực tế đã chứng minh, trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ Đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, Đảng ta quán triệt, vận dụng sáng tạo và đạt được nhưng thành tựu to lớn trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[7] Karl Marx - Friedrich Engels (2018), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

1 Trong đó có Robert Strange McNamara (1916-2009), nhà chính trị, Chủ tịch Tập đoàn Ford Motor Co, rồi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ nhiệm kỳ 1961-1963 và 1963-1968, sau đó thôi không làm trong chính quyền Mỹ nữa mà làm Chủ tịch Ngân hàng Thế (1968-1981), người đã viết một cuốn sách như là hồi ký, hồi tưởng 20 năm sau 30-4-1975; và phần nào là “con cáo già”Henry Alfred Kissinger (1923-2023), Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và sau đó kiêm Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời tổng thống Richard Nixon và tổng thống Gerald Ford, người đứng đầu đoàn đàm phán 4 bên tại Hội nghị đằng đắng 5 năm trời tại Clebe, Paris, thủ đô Cộng hòa Pháp).

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.