Thứ Năm, ngày 23/01/2025, 17:04

Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh

Trần Thanh Tùng – Ngô Quang Trung
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) Thành phố Hạ Long là một trong những điểm sáng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, tuy nhiên, với tiềm năng, lợi thế sẵn có, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của thành phố vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thành phố Hạ Long trong giai đoạn vừa qua, từ đó, đề xuất giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương trong thời gian tới.

Quảng bá, xúc tiến du lịch thành phố Hạ Long (ảnh news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế của một quốc gia, địa phương, đồng thời, tuân theo quy luật phát triển khách quan, có thể nhìn nhận trên các khía cạnh như: Phân bổ tài nguyên hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển (tạo ra việc làm, gia tăng thu nhập cho người dân,...), đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nâng cao khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo điều kiện ứng dụng các phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại. Do vậy, chuyển dịch cơ cấu đúng hướng là tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH). 

1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 

1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình khách quan vận hành theo quy luật nội tại của quá trình phát triển kinh tế, khi có đủ sự tích lũy về lượng sẽ có sự thay đổi về chất trong cơ cấu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự chuyển dịch từ trạng thái này sang trạng thái khác sao cho phù hợp với sự phân công lao động, trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất theo các điều kiện về kinh tế - xã hội và phù hợp với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ nào đó. Hiện nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra đồng thời trên cả ba nội dung: i) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành: Là sự vận động chuyển dịch vị trí, tỷ trọng của các ngành kinh tế và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng để phù hợp với năng lực sản xuất và phân công lao động xã hội; ii) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng: Là sự chuyển dịch tỷ trọng các ngành kinh tế xét theo từng vùng, căn cứ theo nguồn tài nguyên, dân cư, địa hình và khí hậu sẽ tạo ra sự đa dạng trong cơ cấu lãnh thổ, các khu vực địa lý khác nhau; iii) Chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế: Trong cơ cấu kinh tế nhà nước, chính phủ tiến hành quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và đảm bảo sự phát triển bền vững cho quốc gia. Kinh tế ngoài nhà nước là loại kinh tế được không thuộc quyền sở hữu, không chịu sự chi phối nào của Nhà nước, các doanh nghiệp này được tự do hoạt động nhưng phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, vừa tuân theo quy luật phát triển nhưng cũng phải đảm bảo mục tiêu của mình. 

1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Đại hội XIII nêu rõ: "Tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". CNH-HĐH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả hệ thống chính trị, là phương thức, động lực để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Do vậy, Việt Nam muốn thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, tất yếu vẫn phải tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH. Vấn đề CNH-HĐH đất nước đã được đặt ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Trong thời gian qua, có khoảng 20 nghị quyết đã ban hành một số chủ trương, đường lối quan trọng có liên quan đến những khía cạnh riêng rẽ của CNH-HĐH. Ngày 17/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết là chuyên đề đầu tiên của Đảng về CNH-HĐH, là kim chỉ nam để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng nêu trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030; là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng trong việc định hướng những tư duy mới, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp mới tạo động lực thúc đẩy CNH-HĐH đất nước. Nghị quyết đề ra 5 nhóm quan điểm chỉ đạo có tính toàn diện như: “Nhận thức về CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động; phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương... Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp. Coi trọng phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu"[2]. Như vậy, cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển. 

2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thành phố Hạ Long trong thời gian qua

Thành phố Hạ Long có diện tích 1.119,36 km², dân số là 322.710 người, có 33 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 21 phường. Là địa phương có lợi thế về biển và di sản du lịch biển, vịnh Hạ Long 2 lần được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Với tiềm năng đó, Hạ Long rất có lợi thế trong phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và kinh tế biển. Từ năm 2003 đến nay, quy mô nền kinh tế tăng cao, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 14%; thu hút tổng vốn đầu tư toàn xã hội 10 năm gần đây đạt trên 423 nghìn tỷ đồng; thu ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 15%, đóng góp gần 50% tổng thu của tỉnh; tỷ trọng chi đầu tư phát triển luôn đạt trên 57%[3].

2.1 Tình hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh 

Từ năm 2014, thành phố Hạ Long đã xác định cơ cấu kinh tế sẽ phát triển theo hướng: Công nghiệp - Du lịch, Dịch vụ, Thương mại - Nông, lâm nghiệp và hải sản. Sau hơn 10 năm phát triển, cơ cấu kinh tế của thành phố đã chuyển dịch theo đúng mục tiêu đã xác định, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và hải sản đã giảm xuống chỉ còn 1% trong tỷ trọng cơ cấu kinh tế ngành của toàn bộ nền kinh tế (Nông lâm ngư nghiệp 1% - Công nghiệp xây dựng 45,6% - Dịch vụ, thuế sản phẩm 53,4%)[4].

Giá trị sản xuất thu được của từng ngành trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý ngày càng tăng lên. Cụ thể: ngành dịch vụ ước năm 2023 đạt 57.219,4 tỷ đồng, tăng 17,4% so với 2022, vượt kế hoạch đề ra là 17%, tổng thu từ du lịch ước đạt 19.500 tỷ đồng, bằng 81,9% so với năm 2019, bằng 134,4% so với năm 2022, ngành công nghiệp, xây dựng ước đạt 141.989,7 tỷ đồng, tăng 15,8% so với 2022, ngành nông, lâm, ngư nghiệp ước đạt 1.518,3 tỷ đồng, tăng 8,5% so với 2022. Theo đó, tổng thu ngân sách thành phố lũy kế đạt 16.555,6 tỷ đồng, bằng 90,1% dự toán tỉnh giao, bằng 90,1% kế hoạch thành phố, bằng 111,6% so với cùng kỳ[4]. Trong 6 tháng đầu năm 2024, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tổng giá trị sản xuất các ngành của thành phố Hạ Long đạt 113.370 tỷ đồng[5]. Từ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo sự dịch chuyển về lao động từ khu vực nông, lâm hải sản sang lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp, chất lượng nguồn lao động cũng được nâng lên để đáp ứng được yêu cầu của quá trình chuyển dịch: Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2023 ước đạt 90,43%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ước đạt 75,32%, tỷ lệ lao động chất lượng cao đạt 23,5%, vượt mục tiêu kế hoạch năm 2023, đến nay đã giải quyết việc làm mới cho 6.776 lao động đạt 104,2% kế hoạch của Thành phố; ước cả năm 2023 giải quyết việc làm mới cho 7.400 lao động[4].

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế kinh tế biển đã có bước phát triển đúng hướng, tổng hàng hoá đạt từ trung bình thông qua cảng từ 30-35 triệu tấn và trên 50.000 container/năm; kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá trên địa bàn năm 2023 ước đạt 915 triệu USD bằng 100,2% so với cùng kỳ; sản lượng nuôi trồng, khai thác thủy sản đạt năm 2023 đạt trên 1.500 tấn[4], các dịch vụ và nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch tại cảng khách quốc tế Tuần Châu, cảng khách quốc tế Hạ Long góp phần hình thành hạ tầng hiện đại, tạo điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước và quốc tế.

2.2 Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh 

Những kết quả đạt được: Qua những số liệu từ phân tích thực trạng của thành phố Hạ Long cho thấy:

- Cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế của Hạ Long trong thời gian qua đã chuyển dịch theo quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình CNH-HĐH. Tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm nghiệp và hải sản chỉ còn chiếm khoảng 1% nhưng thu được giá trị cao, ngành dịch cụ chiếm hơn khoảng 50%, công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 46%. Tại Hạ Long, ngành nông nghiệp đã chuyển dịch từ loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế thấp sang loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao, gắn kết sản xuất nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, sản xuất với bảo quản, chế biến tiêu thụ nông sản, dần hình thành vùng trồng trọt có giá trị kinh tế cao gắn với phát triển du lịch sinh thái, cộng đồng dựa trên lợi thế, tiềm năng về tự nhiên, văn hóa, cộng đồng. Ngành công nghiệp và xây dựng đã dần đi sâu vào công nghiệp chế biến chế tạo[4]... Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang dẫn dắt tăng trưởng chung của toàn ngành, đồng thời, tiếp tục từng bước trở thành động lực chính thức đẩy sản xuất công nghiệp trên địa bàn .

- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế. Số lao động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 17.000 người; Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2023 ước đạt 90,43%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ước đạt 75,32%, tỷ lệ lao động chất lượng cao đạt 23,5%[4], cho thấy lao động được đào tạo và đã có sự chuyển dịch từ khu vực có năng suất lao động thấp sang các khu vực có năng suất lao động cao hơn, làm tăng năng suất trung bình của nền kinh tế, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.

- Cơ cấu kinh tế biển đã có những bước phát triển đáng ghi nhận: Tổng hàng hoá đạt từ trung bình thông qua cảng biển từ 30-35 triệu tấn và trên 50.000 container/năm; kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá trên địa bàn năm 2023 đạt 915 triệu USD, khách quốc tế du lịch biển đạt 1.400 nghìn lượt khách[4].

- Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng hiện đại cũng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng, giúp cho người dân có điều kiện tiếp cận phương thức sinh hoạt và giao dịch hiện đại, thể hiện tỷ lệ khu dân cư tập trung có kết nối internet băng rộng cố định đạt 100%... Số người dân có sổ sức khỏe điện tử được đưa vào sử dụng trong khám chữa bệnh: 98,5%; tỷ lệ người dân trưởng thành sử dụng nền tảng tư vấn khám chữa bệnh từ xa: 52,9%[4]. Bên cạnh đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại góp phần thực hiện đầy đủ, kịp thời, công khai, minh bạch các chính sách an sinh xã hội, chăm sóc người có công và đối tượng bảo trợ xã hội, đến nay thành phố hoàn thành công nhận không còn hộ cận nghèo trên địa bàn các xã, phường theo tiêu chí nâng cao, triển khai hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 109/109 hộ, trong đó: huy động nguồn lực và phân bổ: 79 nhà, tổng số tiền hỗ trợ: 3,409 tỷ đồng. Các xã, phường chủ động, vận động xây dựng: 30 nhà, số tiền mặt hỗ trợ là: 1,730 tỷ đồng; các xã, phường vận động hỗ trợ khác trên 1,5 tỷ đồng; Tổng số kinh phí hỗ trợ: 109 nhà với tổng số tiền là trên 6,6 tỷ đồng[4].

Những hạn chế và nguyên nhân

Một là, cơ cấu kinh tế ngành dịch chuyển nhanh nhưng chưa thực sự bền vững. Cụ thể, ngành nông, lâm nghiệp và hải sản mặc dù chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế ngành của thành phố Hạ Long, tuy nhiên số lượng lao động trong ngành này khá cao, ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhưng đa số sử dụng lao động phổ thông, công nghiệp chế biến chế tạo chiếm tỷ trọng chưa lớn trong toàn bộ ngành công nghiệp. Các ngành công nghiệp phụ trợ còn kém phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Đối với ngành dịch vụ, dịch vụ lưu trú và ăn uống còn chiếm tỷ trọng cao trong GRDP; trái lại các dịch vụ cao cấp như vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông, hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế... còn chiếm tỷ trọng thấp trong GRDP.

Hai là, thu hút FDI chưa tạo ra sự liên doanh liên kết, tác động lan tỏa giúp doanh nghiệp bản địa phát triển, hiệu quả đầu tư chưa đạt như kỳ vọng. Việc thu hút các dự án đầu tư nước ngoài gia tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa đảm bảo, công nghệ chưa tốt, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ hiện đại còn thấp, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ lạc hậu còn lớn, chưa thực sự hiện đại và tạo ra hiệu ứng lan tỏa đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. 

Ba là, chuyển dịch cơ cấu ngành trong kinh tế biển đang còn lúng túng, chưa bắt kịp xu hướng chuyển từ các ngành sản xuất “nâu” sang “xanh”. Hơn nữa, tỷ trọng các ngành công nghiệp biển mà Hạ Long thế mạnh phát triển chưa tương xứng với kỳ vọng. Điều này dẫn đến lãng phí cơ hội và nguồn lực phát triển, bởi xét cho cùng thì đây mới chính mà lợi thế để cơ cấu kinh tế của địa phương chuyển dịch theo hướng hiện đại, trở thành động lực phát triển trong tương lai. 

Bốn là, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, nông thôn, hải đảo vẫn còn nhiều khó khó khăn, hạ tầng giao thông và các dịch vụ công thiết yếu vẫn chưa bao phủ hết khu vực này. Chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 1% trong GRDP của địa phương nhưng đến nay Hạ Long vẫn chưa hoàn thành được việc xây dựng nông thôn mới nâng cao tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện đại phục vụ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 

Nguyên nhân hạn chế sau: 

- Sau đại dịch Covid – 19 tác động chung gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. 

- Quy hoạch không gian biển của quốc gia chưa được phê duyệt dẫn đến quy hoạch của địa phương chưa thể hoàn thành đi vào thực hiện trong nhiều hạng mục của các ngành kinh tế biển. 

- Trình độ và chất lượng của nguồn nhân lực tại địa phương còn hạn chế nên việc chuyển dịch lao động từ các ngành thâm dụng lao động sang các ngành đòi hỏi trình độ cao chậm, trong đó, cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế thì lao động nhóm ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng lao động địa phương; tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo còn thấp; còn mất cân đối trong cơ cấu về trình độ và ngành nghề đào tạo, chất lượng đào tạo còn thấp, tỷ lệ lao động chất lượng cao của thành phố Hạ Long chỉ mới đạt 23,5%[4].

- Công tác quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, chưa được tháo gỡ. Trình độ khoa học - công nghệ, cơ cấu kỹ thuật, công nghệ còn nhiều tầng, nhiều trình độ, trong đó trình độ thấp còn phổ biến, tốc độ đổi mới công nghệ của các đơn vị kinh tế còn chậm dẫn đến việc chuyển đổi mô hình, công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất vẫn còn yếu.

3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thành phố Hạ Long trong giai đoạn tới

Thứ nhất, rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với bối cảnh, tình hình mới, Hạ Long cần có chính sách tài chính, tín dụng ưu đãi đối với các ngành, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh được khuyến khích phát triển, trong đó tập trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực chế biến, chế tạo, phát triển ngành dịch vụ tổng hợp hiện đại giữ vai trò chủ đạo; phát triển du lịch xanh, bền vững và đi vào chiều sâu; đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn thành phố, cần tái cấu trúc mạnh hơn nữa trong lĩnh vực kinh tế biển, phải trở thành một trong những trung tâm kinh tế biển của cả nước.

Thứ hai, xây dựng chính sách mạnh hơn nữa trong thu hút FDI, đặc biệt các doanh nghiệp FDI quy mô lớn, có trình độ công nghệ cao đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, du lịch, dịch vụ, thương mại và các ngành kinh tế biển mới trên địa bàn thành phố. Thiết lập các cơ chế liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp bản địa.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phân theo nhóm ngành kinh tế theo hướng tiến bộ; mở rộng quy mô đào tạo; điều chỉnh cơ cấu về trình độ và ngành nghề đào tạo; nâng cao chất lượng đào tạo phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Điều chỉnh cơ cấu về trình độ và ngành nghề đào tạo theo hướng phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trong đó cần phải căn cứ vào nhu cầu về mỗi loại lao động để thực hiện các giải pháp đào tạo nhằm cung cấp nguồn lao động phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.

Thứ tư, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất hướng tới nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh, nhân rộng các mô hình hợp tác có hiệu quả trong nông nghiệp, liên kết bốn nhà, liên kết theo chuỗi giá trị, từ đó nhanh chóng hoàn thành xây dựng nông thôn mới nâng cao trên địa bàn thành phố.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, kích hoạt mọi nguồn lực hợp pháp trong xã hội. Tập trung nguồn lực hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đa dụng, trọng tâm ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông chiến lược, có tính động lực kết nối vùng và khu vực trung tâm đến các xã, trong đó chủ trọng phát triển hạ tầng số, hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, các khu công nghiệp, hạ tầng cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng du lịch, dịch vụ, thương mại, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

Kết luận

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu không thể đảo ngược. Tuy nhiên, để cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thành phố Hạ Long cần phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp để thúc đẩy cơ cấu kinh tế địa phương chuyển dịch đúng hướng, phát huy hết tiềm năng và lợi thế vốn có nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo sự bền vững trong quá trình phát triển mới đạt được mục tiêu cần hướng đến trong thời gian tới.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW về Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

[3] Nguyễn Thành(2023), Hạ Long - Hành trình phát triển, khát vọng rồng bay, https://nongnghiep.vn

[4] UBNDTP Hạ Long (2023), Báo cáo Tình hình phát triển kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành của UBND Thành phố năm 2023; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2024, số 1258/BC-UBND, ngày 13/12/2023.

[5] UBNDTP Hạ Long (2024), Báo cáo Kết quả thực hiện kịch bản tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế thành phố Hạ Long quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024, số 557/BC-UBND, ngày 20/6/2024.

Đọc thêm

Quan hệ giữa các tộc người thiểu số cùng nhóm ngôn ngữ ở vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc hiện nay

Tác giả: VŨ TRƯỜNG GIANG

(GDLL) - Quan hệ giữa các tộc người thiểu số cùng nhóm ngôn ngữ ở vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc có hình thức và nội dung đa chiều, được biểu hiện trong hầu hết các lĩnh vực như nguồn gốc lịch sử tộc người, hoạt động kinh tế, đời sống xã hội, văn hóa. Bài viết tập trung phân tích thực trạng quan hệ giữa các tộc người thiểu số cùng nhóm ngôn ngữ ở vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp quản lý nhằm góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biên giới Việt Nam và Trung quốc hiện nay.

Giải pháp nâng cao năng lực tư duy chiến lược của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay

Tác giả: ThS, NCS Trần Thiên Tú

(LLCT) - Những năm qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nhìn chung đã phát huy tốt năng lực tư duy chiến lược của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành ngành, lĩnh vực, đơn vị, địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, năng lực tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn một số hạn chế. Do vậy, cần có các giải pháp nâng cao nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Giải quyết các vấn đề xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long

Tác giả: TS Phan Thuận - ThS Phạm Phương Lan

(LLCT) - Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc giải quyết các vấn đề xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được những kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Từ thực tế đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội của vùng theo hướng nhanh, bền vững.

Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế - xã hội (qua thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh)

Tác giả: TS Bùi Phương Đình TS Đỗ Văn Quân

(LLCT) - Trong những năm qua, việc phát triển và phát huy vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Tĩnh đã góp phần giải phóng, phát triển sức sản xuất và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế - xã hội; góp phần phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội trên địa bàn. Mặc dù vậy, việc phát triển và phát huy vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hà Tĩnh vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; do đó cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thúc đẩy trong thời gian tới.

nâng cao hiệu quả huy động các nguồn lực xã hội nhằm phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn mới các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ: thực trạng và giải pháp

Tác giả: Hoàng Thị Lâm Oanh

(GDLL) - Dưới góc độ đánh giá các các nguồn lực xã hội phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả huy động các nguồn lực xã hội phát triển kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến 2030.