Thứ Sáu, ngày 30/05/2025, 00:47

Cải cách thể chế chính trị dưới thời Lê Thánh Tông và ý nghĩa đối với xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam hiện nay

Nguyễn Thị Thùy Dương
Học viện Chính trị khu vực III.

(GDLL) Nhà vua Lê Thánh Tông lên ngôi và trị vì đất nước trong suốt 38 năm (1460 – 1497). Những cải cách thể chế chính trị của ông đã đưa triều Lê Sơ thoát khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài hơn 20 năm, đưa nước Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam. Bài viết làm rõ những nội dung quan trọng trong cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông, trên cơ sở đó rút ra một số ý nghĩa đối với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam hiện nay.

Hội thảo khoa học: “Điểm nghẽn thể chế và các giải pháp đột phá để phát triển”

(nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước từ một quốc gia kém phát triển thành nước có thu nhập trung bình, chính trị, kinh tế - xã hội ổn định. Để tiếp tục đẩy nhanh sự phát triển, trong bối cảnh hiện nay, cải cách thể chế tiếp tục đóng vai trò nền tảng cho sự thành công của Đổi mới, đặc biệt là chính trị và kinh tế.

Đã từng có nhiều cuộc cải cách thể chế nhằm đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong lịch sử phát triển đất nước, nổi bật như dưới thời vua Lê Thánh Tông, góp phần đưa Đại Việt trở thành quốc gia hùng mạnh ở khu vực lúc đó.

Hiện nay, đổi mới hệ thống chính trị và hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ cấp bách. Nghiên cứu những cải cách của vua Lê Thánh Tông không chỉ làm sáng tỏ giá trị tiến bộ trong lịch sử mà còn có ý nghĩa trong xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam hiện nay.

1. Bối cảnh cuộc cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông

Năm 1428, sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) lên ngôi lập ra nhà Lê. Các triều vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433), Lê Thái Tông (1434 - 1442), Lê Nhân Tông (1443 - 1459) đã đạt được một số thành quả trong củng cố và xây dựng đất nước, đưa Đại Việt bước vào một giai đoạn phát triển độc lập. Tuy nhiên, đến thời Lê Thánh Tông (từ lúc ông sinh ra và lớn lên cho đến trước thời điểm lên ngôi) là giai đoạn đất nước nhiều biến động, khủng hoảng trên nhiều phương diện trong đó có bộ máy nhà nước. Cuộc cải cách thể chế chính trị của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) được thực hiện đã giải quyết kịp thời sự khủng hoảng đó.

Có một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng bộ máy nhà nước khủng hoảng như:

Cách thức tổ chức bộ máy nhà nước chưa phù hợp: Sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ bắt tay vào xây dựng chính quyền mới nhưng vẫn theo mô hình nhà nước thời Trần. Ở Trung ương, đứng đầu triều đình là vua. Sau vua là Tả, Hữu Tướng quốc, Đại hành khiển, các quan tam tư, tam thái, tam thiếu. Các chức quan trọng yếu của triều đình đều trao cho những người thân cận của nhà vua và công thần nắm giữ. Ở địa phương, Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây. Dưới cấp đạo là các cấp lộ, trấn, phủ, châu, huyện nhưng không cho biết rõ thứ tự trên dưới, giữa các đơn vị hành chính dưới lộ.

Trong khi kinh tế - xã hội giai đoạn này có sự phát triển hơn cần có bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thì cách tổ chức này khiến quyền lực của vua bị phân tán, chính quyền trung ương chưa vững mạnh; các cấp trung gian như phủ, huyện, trấn, lộ quá nhiều với chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng gây phức tạp cho việc quản lý của triều đình.

Sự tha hóa của đội ngũ quan lại: Đầu thời Lê Sơ, tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi xa hoa diễn ra khá phổ biến ngay cả trong hàng ngũ quan lại cao cấp của triều đình. Về tình trạng này, sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Năm 1448, nhân việc vua gả công chúa cho con của Thái úy Lê Thụ, “những người cầu tiến đạt” đua nhau đem của cải để mong phú quý, các thứ gấm thêu, lĩnh là, vóc lụa ở hàng phố bán hết nhẵn. Lê Thụ lại “bắt các quan trấn, lộ, huyện phải biện đủ trâu, dê, các thứ”[3, tr.392]. Tình trạng này còn được thể hiện rõ hơn qua bản “Trung hưng ký”: “Nhân Tông mới 2 tuổi, sớm lên ngôi vua... kẻ thân yêu giữ việc, tệ hối lộ lộng hành...Tế thần như Lê Sũng, Lê Sát thì dốt đặc, Cường binh như Lê Diên, Lê Luyện thì mù tịt... phường dốt đặc nổi dậy như ong... Bán quan, mua ngục, ưa giàu, ghét nghèo... kẻ xiêm nịnh được nghe theo, bọn đạo sát thì được bổ dụng” [3, tr.411].

Sự lục đục, mâu thuẫn trong nội bộ cung đình: Sau khi Lê Thái Tổ qua đời, các vị vua kế vị còn nhỏ. Lê Thái Tông lên ngôi lúc 10 tuổi, Lê Nhân Tông lên ngôi lúc 2 tuổi, là cơ hội cho bọn mưu thần lộng hành. Sử cũ cho biết: “khoảng năm Thái Hòa, Diên Ninh (thời Thái Tổ, Thái Tông), trên thì tể tướng, dưới đến trăm quan, mưu lợi lẫn nhau, bừa bãi hối lộ” [1, tr.90]. Hàng loạt công thần khai quốc như Lưu Nhân Chú, Nguyễn Trãi, Trịnh Khả,…lần lượt bị giết vì những đố kỵ. Các vua kế vị còn nhỏ tuổi không đủ khả năng chấm dứt được tình trạng này. Nội bộ triều đình mâu thuẫn sâu sắc, điển hình là vụ chính biến của Lê Nghi Dân năm 1459. Vua Lê Nhân Tông và Thái hậu Tuyên Từ bị giết; chỉ huy cấm binh Lê Đắc Ninh đem quân giúp Nghi Dân hành động; Nghi Dân đã ban chiếu đại xá, sai Lê Cảnh Huy, Trần Phong,…sang nhà Minh nộp cống và cầu phong.

2. Nội dung cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông

Có thể hiểu thể chế chính trị một mặt là những nguyên tắc, quy định, luật pháp…nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác nó là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay hệ thống chính trị. Theo đó, thể chế chính trị gồm 3 yếu tố cấu thành: (1) Quy định, luật lệ; (2) Tổ chức bộ máy; (3) Nhân sự. Bài viết sẽ phân tích nội dung những cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông tương ứng với quan niệm trên.

Một là, cải cách hệ thống pháp luật.

- Xây dựng, bổ sung các điều luật nhằm quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Lê Thánh Tông chú trọng xây dựng và bổ sung các điều luật, nhấn mạnh rằng: “Trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn”[2, tr.292]. Ông ban hành Bộ luật Hồng Đức với hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể, bao gồm các chế định hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình và tố tụng. Nhiều sắc chỉ về kiện tụng, giám sát, khen thưởng, kỷ luật quan lại cũng được ban hành, đảm bảo luật pháp dễ hiểu, dễ áp dụng và ngăn chặn hành vi “lách luật.” Làng xã phải tuân thủ pháp luật, hạn chế lệ làng bừa bãi. Hương ước, lệ làng được triều đình kiểm duyệt để ngăn xu hướng tự trị.

- Có cơ chế hạn chế quyền lực của nhà Vua – chủ thể tối cao của hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật.

Trong nhà nước, vua là người có quyền ra phán quyết cao nhất. Tuy nhiên, quyền lực của vua vẫn chịu sự kiểm soát từ pháp luật và các cơ quan như Hàn lâm viện, Bí thư giám, Chính sự viện, Nội mật viện. Những cơ quan này hỗ trợ tư vấn và can gián để đảm bảo các quyết định của vua hợp lý, giảm thiểu rủi ro trong điều hành đất nước. Quyền lực của vua còn bị hạn chế bởi quy định rằng các vụ án do vua xét xử nếu không mang tính điển hình làm khuôn mẫu cho các vụ việc sau này thì không được sử dụng làm tiền lệ. Quy định này thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật mang lại giá trị cao trong bảo vệ quyền con người, hạn chế quyền lực nhà nước.

- Đề cao vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền lợi nhân dân.

Nhà nước là chủ thể phải đảm bảo tính công khai, minh bạch của pháp luật: “Từ nay về sau, phàm có các chỉ, các lệ về việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, sứ ty và các nha môn phủ huyện châu đều biên ra bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà làm” [3, tr.667]. Để pháp luật phát huy được các giá trị tự thân của nó, các hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý thật thích đáng, bất kể kẻ vi phạm pháp luật ở địa vị nào, và nhiệm vụ đó nhà nước phải đảm bảo: “Đặt luật là để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật”, “Quân pháp chỉ có một chứ không có hai” [3, tr.622]. Vua Lê Thánh Tông đã cho xử lý rất nặng đối với các vụ việc mà người vi phạm là các quan chức của nhà nước. Người thi hành pháp luật trước tiên cần phải tuân thủ pháp luật.

Hai là, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền quan liêu.

Dưới thời Lê Thánh Tông, thể chế chính trị nhà nước quân chủ tập quyền quan liêu được tổ chức chặt chẽ, dựa trên tinh thần Nho giáo. Bộ máy nhà nước được cải tổ tinh gọn, đảm bảo hiệu quả cai trị theo nguyên tắc "tôn quân quyền". Ông tiến hành bỏ bớt một số chức quan, cơ quan và cấp chính quyền trung gian để đảm bảo sự tập trung quyền lực. Theo đó, can thiệp và trực tiếp điều hành ở mức tối cao tất cả mọi mặt công việc của triều đình. Bên cạnh đó để tăng cường tính quan liêu cho bộ máy nhà nước, Lê Thánh Tông đã triển khai nhiều biện pháp hình thành đội ngũ quan lại thông qua dụ Hiệu định quan chế, Bộ luật Hồng Đức và nhiều văn bản khác như Lệ khảo khóa năm 1470, Sắc chỉ năm 1480,…trong đó có nhiều điều khoản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của quan lại.

- Thực hiện nguyên tắc giám sát lẫn nhau trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

Ở trung ương, Lê Thánh Tông cho thành lập lục Tự và hoàn thiện lục Khoa. Lục Tự chịu sự điều chỉnh trực tiếp của nhà vua, không thuộc lục Bộ, phụ trách những việc mà lục Bộ không quản lý hết. Chức năng giám sát của lục Khoa đối với lục Bộ được xác định cụ thể. Các Khoa hoạt động độc lập, không bị chi phối bởi Thượng thư các bộ. Nếu các Bộ có sai phạm, người đứng đầu các Khoa được phép báo cáo trực tiếp lên nhà vua.

Ở địa phương, cơ chế kiểm soát quyền lực cũng được tăng cường. Lần đầu tiên, các Ty ngự sử do Ngự sử đài thành lập, được đặt ở các đạo, làm chức năng giám sát đạo. Có 6 Ty ngự sử, đứng đầu là Giám sát ngự sử, mỗi ty giám sát từ 2 - 3 đạo trên cả nước. Như vậy, mặc dù đóng trên địa bàn các đạo, nhưng Ty ngự sử lại hoạt động độc lập, trực thuộc và báo cáo trực tiếp hoạt động giám sát các đạo lên Ngự sử đài ở trung ương.

- Cải cách về cơ cấu tổ chức và phân định chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.

Ở trung ương: Lê Thánh Tông bãi bỏ các chức Tể tướng như Tam tư, Tả, Hữu Tướng quốc, Bộc xạ, Đại hành khiển. Vua tự mình giải quyết mọi việc với sự giúp đỡ của một nhóm các Thái, các Thiếu, cùng các đại học sĩ…Các cơ quan như Nội mật viện, Chính sự viện, Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Tông nhân phủ cũng bị bãi bỏ. Vua làm việc trực tiếp với 6 bộ, 6 tự và 6 khoa. Một số thư, cục cấp dưới không còn nữa. Ngoài ra, viện Hàn lâm, Đông các, Ngự sử đài, Quốc sử viện, Thông chính sứ ty, Hà đê ty, các chức quan chuyên môn khác đều có công việc riêng của mình.

Ở địa phương: Lê Thánh Tông xóa bỏ sự phân chia theo đạo, trấn, lộ, phủ và chia đất nước làm 13 đạo Thừa tuyên và phủ Trung đô. Ở mỗi thừa tuyên có 3 ty gồm: Thừa ty, Đô ty và Hiến ty. Dưới thừa tuyên, hệ thống quan lại ở phủ, huyện, châu cũng được thống nhất. Phủ có tri phủ chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt động của các huyện, huyện có tri huyện phụ trách chung các việc hộ hôn, điền thổ, kiện tụng. Châu có tri châu cai quản.

Ba là, cải cách chế độ quan lại.

- Tuyển chọn, sử dụng, kiểm tra và giám sát quan lại công khai, minh bạch.

Về thi tuyển, Lê Thánh Tông đặt ra 3 lệ thi: thi tuyển, bảo cử, tập ấm để tìm kiếm, lựa chọn người hiền tài và tránh được căn bệnh “mua quan bán chức”. (1) Lệ thi tuyển gồm ba kỳ: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Chế độ thi tuyển được đảm bảo bằng các quy chế, kỷ luật và chấm thi nghiêm túc. (2) Lệ bảo cử để tránh bỏ sót nhân tài không có điều kiện dự thi. Người bảo cử phải lấy tước vị, phẩm hàm đảm bảo người được cử xứng tài, xứng đức. Đề cử được trình lên bộ Lại, qua kiểm tra của Lại Khoa và Ngự sử đài rồi tâu vua phê chuẩn. Nếu người được bảo cử không xứng, người đề cử sẽ bị phạt. (3) Lệ tập ấm: áp dụng cho con cháu, hoàng thân quốc thích, con quan văn, võ nhất phẩm, nhị phẩm, con các viên quan từ tứ phẩm đến bát phẩm. Nếu chăm chỉ sẽ được học tại Chiêu văn quán, cứ 3 năm xét phẩm hạnh và học vấn rồi thi khảo.

Về chế độ kiểm tra và giám sát quan lại, Lê Thánh Tông áp dụng lệ khảo thi để đánh giá năng lực và khảo khóa để kiểm tra khả năng thực hành của quan lại, từ đó sắp xếp công tác phù hợp. Ông cũng lập 6 Khoa ở trung ương và Ngự sử đài tại 13 thừa tuyên để giám sát hoạt động của quan lại ở cả trung ương và địa phương.

- Thực hiện mở rộng diện và đối tượng áp dụng chế độ “hồi tỵ”.

Áp dụng quy tắc hồi tỵ (có nghĩa là tránh đi) thì những người có quan hệ anh em, bạn bè không được làm quan cùng một chỗ. Quan lại không được lấy vợ hoặc làm thông gia với người nơi mình cai quản. Không đưa quan lại về quê hương nhậm trị, không được mua đất, ruộng, nhà tại nơi cai quản.

Lê Thánh Tông áp dụng chế độ “hồi tỵ” nhằm ngăn chặn quan lại chia bè kéo cánh, tham nhũng, vi phạm pháp luật. Với những quy định cụ thể và phạm vi áp dụng rộng rãi đã có sức răn đe, củng cố bộ máy nhà nước, ngăn tình trạng bè phái trong các vấn đề nhạy cảm của nền hành chính.

- Khen thưởng, xử phạt quan lại nghiêm minh và đặc biệt kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Vua Lê Thánh Tông khuyến khích quan lại tận tâm bằng cách khen thưởng công minh, nêu rõ lý do họ được khen thưởng. Hình thức khen thưởng cả về tinh thần (phẩm cấp, chức tước...) và vật chất (lương bổng, lộc điền...). Đồng thời, ông nghiêm khắc phê bình, xử phạt công bằng, không phân biệt chức vụ, kiên quyết chống tham nhũng. Trong Bộ luật Hồng Đức, 172/722 điều xử phạt quan lại, 40 điều trực tiếp chống tham nhũng. Vua xử lý minh bạch, ngăn chặn oan sai và giữ vững phép nước, răn đe và phòng ngừa vi phạm hiệu quả.

3. Giá trị từ những cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông đối với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam hiện nay

Đối với công cuộc Đổi mới ở Việt Nam hiện nay, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị có ý nghĩa quan trọng. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng và xây dựng được một thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh định hướng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Từ những cải cách của Lê Thánh Tông, nhiều nội dung có giá trị cần tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng.

Một là, về cải cách tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, với các cơ quan giám sát, chuyên trách hiệu quả.

Thời vua Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước được xây dựng gọn nhẹ, tổ chức chặt chẽ thành một guồng máy vận hành thống nhất từ trung ương đến địa phương. Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm thiết kế cơ quan chuyên trách kiểm tra, giám sát. Lục Bộ hoạt động theo chức năng và Lục Khoa giám sát các hoạt động của Lục Bộ, đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng của quan lại,

Từ những cải cách đó chúng ta có thể vận dụng trong công tác đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả như tiếp tục tinh giản bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước; chuẩn hóa, luật hóa các văn bản quy phạm pháp luật về tinh giản biên chế, quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ - các bộ, ngành; xây dựng hành lang pháp lý để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Chính phủ; thiết lập các cơ chế để thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ,...

Hai là, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý xã hội bằng pháp luật.

Lê Thánh Tông đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Hồng Đức. Đây là công cụ giúp ông quản lý, răn đe và trừng phạt đối với những cơ quan, chức quan, dân chúng làm trái pháp luật. Nhờ đó, bộ máy hành chính vận hành hiệu quả, hạn chế tham nhũng và tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là yêu cầu cấp bách. Một hệ thống pháp luật chặt chẽ, minh bạch không chỉ đảm bảo tính tối thượng của pháp luật – một trong những nguyên tắc cốt lõi của nhà nước pháp quyền – mà còn góp phần xây dựng một môi trường kinh tế - xã hội ổn định, mở rộng dân chủ và thúc đẩy hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn hạn chế, gây khó khăn trong thực thi và chưa đảm bảo tính nghiêm minh tuyệt đối. Do đó, cần tiếp tục cải cách theo hướng đồng bộ, minh bạch, dễ thực thi, đồng thời nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật, để pháp luật thực sự trở thành công cụ quản lý hiệu quả, thúc đẩy phát triển bền vững.

Ba là, về đổi mới cơ chế tuyển dụng, đào tạo và sử dụng nhân tài nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có đức và tài.

Thời Lê Thánh Tông tập trung nhiều biện pháp để đội ngũ quan lại thực hiện vai trò hiệu quả trong vận hành bộ máy nhà nước.

Hiện nay, để xây dựng đội ngũ cán bộ có đức và tài, cần đổi mới cơ chế tuyển dụng, đào tạo và sử dụng cán bộ. Cụ thể: Tổ chức thi tuyển công chức với nhiều hình thức đa dạng để tránh bỏ sót nhân tài. Đồng thời, việc tổ chức các kỳ kiểm tra định kỳ và giám sát sát sao góp phần đánh giá liên tục hiệu quả công tác của cán bộ, từ đó kịp thời điều chỉnh và bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực. (có ý nghĩa như “lệ khảo thi” và “khảo khóa” thời Lê Thánh Tông). Ngoài ra, tiếp tục áp dụng hiệu quả hơn quy tắc kiểu “hồi tỵ” trong sử dụng cán bộ, tức là hạn chế mối quan hệ thân cận trong quá trình tuyển dụng và sử dụng, sẽ ngăn chặn tiêu cực. Từ đó không chỉ góp phần xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp mà còn củng cố niềm tin của nhân dân vào hệ thống chính quyền.

Kết luận

Lê Thánh Tông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh triều Lê tồn tại nhiều biến động. Để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh tất yếu phải cải cách thể chế chính trị bằng nhiều biện pháp mạnh mẽ, hiệu quả. Những nội dung đó vẫn còn những giá trị lịch sử quan trọng để hiện nay, trong bối cảnh mới, tiếp tục việc nghiên cứu kế thừa và phát huy. Những giá trị trong cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông góp phần rút ra những bài học cần thiết trong tinh gọn bộ máy nhà nước phù hợp, hiệu quả nhằm đưa đất nước ngày càng hội nhập và phát triển.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Bá Đệ (2007), Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

2. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1985), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II: Kỷ nhà Lê, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Lê Đức Tiết (1997), Lê Thánh Tông – vị vua anh minh, nhà canh tân xuất sắc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.

5. Nguyễn Minh Tường (2019), Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.

Tin liên quan

Đọc thêm

Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tác giả: TRƯƠNG BẢO THANH

(GDLL) - Xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ sở đào tạo tiến hành xây dựng, thẩm định, ban hành, thực hiện, đánh giá và cải tiến các chương trình bồi dưỡng trên thực tế. Bài viết tập trung nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

Tác giả: CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Giải pháp thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19

Tác giả: NINH THỊ MINH TÂM

(GDLL) - Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam và tác động tiêu cực đến “sức khỏe”, tiềm lực và khả năng chống chịu của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm tăng “sức bền” và hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp bị tác động tiêu cực bởi dịch bệnh.

Tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc đại dịch Covid-19 - thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: HOÀNG VĂN HOAN

(GDLL) - Khủng hoảng thường tạo cú sốc cho doanh nghiệp xét về cả kết quả kinh doanh thực tế và kỳ vọng. Các cú sốc có thể tích cực (hữu ích) hoặc tiêu cực (có hại) gây tổn thương cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Để có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn sớm cũng như giảm bớt những tác động bất lợi của các cú sốc gây tổn thương cho doanh nghiệp cũng như xã hội, đặc biệt sau cú sốc đại dịch COVID -19, bài viết giúp nhận diện các cú sốc, mức độ tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc bất lợi từ đại dịch COVID-19 trong giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách.

Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc - một số vấn đề đặt ra

Tác giả: Tạ Thị Đoàn

(GDLL) - Phát triển du lịch cộng đồng đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các tỉnh vùng Tây Bắc, qua đó góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc thời gian qua, bài viết chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới.