
Hội thảo khoa học: “Điểm nghẽn thể chế và
các giải pháp đột phá để phát triển”
(nguồn news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đưa
đất nước từ một quốc gia kém phát triển thành nước có thu nhập trung bình,
chính trị, kinh tế - xã hội ổn định. Để tiếp tục đẩy nhanh sự phát triển, trong
bối cảnh hiện nay, cải cách thể chế tiếp tục đóng vai trò nền tảng cho sự thành
công của Đổi mới, đặc biệt là chính trị và kinh tế.
Đã từng có nhiều cuộc cải cách thể chế nhằm đổi mới và
hoàn thiện bộ máy nhà nước trong lịch sử phát triển đất nước, nổi bật như dưới
thời vua Lê Thánh Tông, góp phần đưa Đại Việt trở thành quốc gia hùng mạnh ở
khu vực lúc đó.
Hiện nay, đổi mới hệ thống chính trị và hoàn thiện thể chế
là nhiệm vụ cấp bách. Nghiên cứu những cải cách của vua Lê Thánh Tông không chỉ
làm sáng tỏ giá trị tiến bộ trong lịch sử mà còn có ý nghĩa trong xây dựng và
hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam hiện nay.
1. Bối cảnh
cuộc cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông
Năm 1428, sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê
Thái Tổ (Lê Lợi) lên ngôi lập ra nhà Lê. Các triều vua Lê Thái Tổ (1428 -
1433), Lê Thái Tông (1434 - 1442), Lê Nhân Tông (1443 - 1459) đã đạt được một số
thành quả trong củng cố và xây dựng đất nước, đưa Đại Việt bước vào một giai đoạn
phát triển độc lập. Tuy nhiên, đến thời Lê Thánh Tông (từ lúc ông sinh ra và lớn
lên cho đến trước thời điểm lên ngôi) là giai đoạn đất nước nhiều biến động, khủng
hoảng trên nhiều phương diện trong đó có bộ máy nhà nước. Cuộc cải cách thể chế
chính trị của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) được thực hiện đã giải quyết kịp
thời sự khủng hoảng đó.
Có một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng bộ máy
nhà nước khủng hoảng như:
Cách thức tổ chức bộ máy nhà nước chưa phù hợp: Sau khi lên ngôi
vua, Lê Thái Tổ bắt tay vào xây dựng chính quyền mới nhưng vẫn theo mô hình nhà
nước thời Trần. Ở Trung ương, đứng đầu triều đình là vua. Sau vua là Tả, Hữu Tướng
quốc, Đại hành khiển, các quan tam tư, tam thái, tam thiếu. Các chức quan trọng
yếu của triều đình đều trao cho những người thân cận của nhà vua và công thần nắm
giữ. Ở địa phương, Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải
Tây. Dưới cấp đạo là các cấp lộ, trấn, phủ, châu, huyện nhưng không cho biết rõ
thứ tự trên dưới, giữa các đơn vị hành chính dưới lộ.
Trong khi kinh tế - xã hội giai đoạn này có sự phát triển
hơn cần có bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thì cách tổ chức này
khiến quyền lực của vua bị phân tán, chính quyền trung ương chưa vững mạnh; các
cấp trung gian như phủ, huyện, trấn, lộ quá nhiều với chức năng, nhiệm vụ không
rõ ràng gây phức tạp cho việc quản lý của triều đình.
Sự tha hóa của đội ngũ quan lại: Đầu thời Lê Sơ,
tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi xa hoa diễn ra khá phổ biến
ngay cả trong hàng ngũ quan lại cao cấp của triều đình. Về tình trạng này, sách
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Năm 1448, nhân việc vua gả công chúa cho con của Thái úy Lê Thụ, “những
người cầu tiến đạt” đua nhau đem của cải để mong phú quý, các thứ gấm thêu,
lĩnh là, vóc lụa ở hàng phố bán hết nhẵn. Lê Thụ lại “bắt các quan trấn, lộ,
huyện phải biện đủ trâu, dê, các thứ”[3, tr.392]. Tình trạng này còn được thể hiện
rõ hơn qua bản “Trung hưng ký”: “Nhân Tông mới 2 tuổi, sớm lên ngôi vua... kẻ thân yêu giữ việc, tệ hối
lộ lộng hành...Tế thần như Lê Sũng, Lê Sát thì dốt đặc, Cường binh như Lê Diên,
Lê Luyện thì mù tịt... phường dốt đặc nổi dậy như ong... Bán quan, mua ngục, ưa
giàu, ghét nghèo... kẻ xiêm nịnh được nghe theo, bọn đạo sát thì được bổ dụng”
[3, tr.411].
Sự lục đục, mâu thuẫn trong nội bộ cung đình: Sau khi Lê Thái Tổ
qua đời, các vị vua kế vị còn nhỏ. Lê Thái Tông lên ngôi lúc 10 tuổi, Lê Nhân
Tông lên ngôi lúc 2 tuổi, là cơ hội cho bọn mưu thần lộng hành. Sử cũ cho biết:
“khoảng năm Thái Hòa, Diên Ninh (thời Thái Tổ, Thái
Tông), trên thì tể tướng, dưới đến trăm quan, mưu lợi lẫn nhau, bừa bãi hối lộ”
[1, tr.90].
Hàng loạt công thần khai quốc như Lưu Nhân Chú, Nguyễn Trãi, Trịnh Khả,…lần lượt
bị giết vì những đố kỵ. Các vua kế vị còn nhỏ tuổi không đủ khả năng chấm dứt
được tình trạng này. Nội bộ triều đình mâu thuẫn sâu sắc, điển hình là vụ chính
biến của Lê Nghi Dân năm 1459. Vua Lê Nhân Tông và Thái hậu Tuyên Từ bị giết;
chỉ huy cấm binh Lê Đắc Ninh đem quân giúp Nghi Dân hành động; Nghi Dân đã ban
chiếu đại xá, sai Lê Cảnh Huy, Trần Phong,…sang nhà Minh nộp cống và cầu phong.
2. Nội dung
cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông
Có thể hiểu thể chế chính trị một mặt là những nguyên tắc,
quy định, luật pháp…nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác
nó là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một
chủ thể chính trị hay hệ thống chính trị. Theo đó, thể chế chính trị gồm 3 yếu
tố cấu thành: (1) Quy định, luật lệ; (2) Tổ chức bộ máy; (3) Nhân sự. Bài viết
sẽ phân tích nội dung những cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông tương ứng
với quan niệm trên.
Một là, cải cách hệ thống pháp luật.
- Xây dựng, bổ sung các điều luật nhằm quản lý nhà nước bằng
pháp luật.
Lê Thánh Tông chú trọng xây dựng và bổ sung các điều luật,
nhấn mạnh rằng: “Trị nước phải có pháp luật, không có pháp
luật thì sẽ loạn”[2,
tr.292]. Ông ban hành Bộ
luật Hồng Đức với hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể, bao gồm các chế định
hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình và tố tụng. Nhiều sắc chỉ về kiện tụng,
giám sát, khen thưởng, kỷ luật quan lại cũng được ban hành, đảm bảo luật pháp dễ
hiểu, dễ áp dụng và ngăn chặn hành vi “lách luật.” Làng xã phải tuân thủ pháp
luật, hạn chế lệ làng bừa bãi. Hương ước, lệ làng được triều đình kiểm duyệt để
ngăn xu hướng tự trị.
- Có cơ chế hạn chế quyền lực của nhà Vua – chủ thể tối
cao của hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật.
Trong nhà nước, vua là người có quyền ra phán quyết cao
nhất. Tuy nhiên, quyền lực của vua vẫn chịu sự kiểm soát từ pháp luật và các cơ
quan như Hàn lâm viện, Bí thư giám, Chính sự viện, Nội mật viện. Những cơ quan
này hỗ trợ tư vấn và can gián để đảm bảo các quyết định của vua hợp lý, giảm
thiểu rủi ro trong điều hành đất nước. Quyền lực của vua còn bị hạn chế bởi quy
định rằng các vụ án do vua xét xử nếu không mang tính điển hình làm khuôn mẫu
cho các vụ việc sau này thì không được sử dụng làm tiền lệ. Quy định này thể hiện
rõ tinh thần thượng tôn pháp luật mang lại giá trị cao trong bảo vệ quyền con
người, hạn chế quyền lực nhà nước.
- Đề cao vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thực hiện
pháp luật, bảo vệ quyền lợi nhân dân.
Nhà nước là chủ thể phải đảm bảo tính công khai, minh bạch
của pháp luật: “Từ nay về sau, phàm có các chỉ, các lệ về
việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, sứ ty và các nha môn phủ huyện châu đều biên ra
bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà làm” [3, tr.667]. Để pháp
luật phát huy được các giá trị tự thân của nó, các hành vi vi phạm pháp luật phải
bị xử lý thật thích đáng, bất kể kẻ vi phạm pháp luật ở địa vị nào, và nhiệm vụ
đó nhà nước phải đảm bảo: “Đặt luật là để trừ kẻ
gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật”, “Quân pháp chỉ có một chứ không
có hai” [3,
tr.622]. Vua Lê Thánh Tông đã cho xử lý rất nặng đối với các vụ
việc mà người vi phạm là các quan chức của nhà nước. Người thi hành pháp luật
trước tiên cần phải tuân thủ pháp luật.
Hai là, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
- Xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền quan liêu.
Dưới thời Lê Thánh Tông, thể chế chính trị nhà nước quân
chủ tập quyền quan liêu được tổ chức chặt chẽ, dựa trên tinh thần Nho giáo. Bộ
máy nhà nước được cải tổ tinh gọn, đảm bảo hiệu quả cai trị theo nguyên tắc
"tôn quân quyền". Ông tiến hành bỏ bớt một số chức quan, cơ quan và cấp
chính quyền trung gian để đảm bảo sự tập trung quyền lực. Theo đó, can thiệp và
trực tiếp điều hành ở mức tối cao tất cả mọi mặt công việc của triều đình. Bên
cạnh đó để tăng cường tính quan liêu cho bộ máy nhà nước, Lê Thánh Tông đã triển
khai nhiều biện pháp hình thành đội ngũ quan lại thông qua dụ Hiệu định quan chế,
Bộ luật Hồng Đức và nhiều văn bản khác như Lệ khảo khóa năm 1470, Sắc chỉ năm
1480,…trong đó có nhiều điều khoản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của quan lại.
- Thực hiện nguyên tắc giám sát lẫn nhau trong hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước.
Ở trung ương, Lê Thánh Tông cho thành lập lục Tự và hoàn
thiện lục Khoa. Lục Tự chịu sự điều chỉnh trực tiếp của nhà vua, không thuộc lục
Bộ, phụ trách những việc mà lục Bộ không quản lý hết. Chức năng giám sát của lục
Khoa đối với lục Bộ được xác định cụ thể. Các Khoa hoạt động độc lập, không bị
chi phối bởi Thượng thư các bộ. Nếu các Bộ có sai phạm, người đứng đầu các Khoa
được phép báo cáo trực tiếp lên nhà vua.
Ở địa phương, cơ chế kiểm soát quyền lực cũng được tăng
cường. Lần đầu tiên, các Ty ngự sử do Ngự sử đài thành lập, được đặt ở các đạo,
làm chức năng giám sát đạo. Có 6 Ty ngự sử, đứng đầu là Giám sát ngự sử, mỗi ty
giám sát từ 2 - 3 đạo trên cả nước. Như vậy, mặc dù đóng trên địa bàn các đạo,
nhưng Ty ngự sử lại hoạt động độc lập, trực thuộc và báo cáo trực tiếp hoạt động
giám sát các đạo lên Ngự sử đài ở trung ương.
- Cải cách về cơ cấu tổ chức và phân định chức năng, nhiệm
vụ của bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Ở trung ương: Lê Thánh Tông bãi bỏ các chức Tể tướng như
Tam tư, Tả, Hữu Tướng quốc, Bộc xạ, Đại hành khiển. Vua tự mình giải quyết mọi
việc với sự giúp đỡ của một nhóm các Thái, các Thiếu, cùng các đại học sĩ…Các
cơ quan như Nội mật viện, Chính sự viện, Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Tông
nhân phủ cũng bị bãi bỏ. Vua làm việc trực tiếp với 6 bộ, 6 tự và 6 khoa. Một số
thư, cục cấp dưới không còn nữa. Ngoài ra, viện Hàn lâm, Đông các, Ngự sử đài,
Quốc sử viện, Thông chính sứ ty, Hà đê ty, các chức quan chuyên môn khác đều có
công việc riêng của mình.
Ở địa phương: Lê Thánh Tông xóa bỏ sự phân chia theo đạo,
trấn, lộ, phủ và chia đất nước làm 13 đạo Thừa tuyên và phủ Trung đô. Ở mỗi thừa
tuyên có 3 ty gồm: Thừa ty, Đô ty và Hiến ty. Dưới thừa tuyên, hệ thống quan lại
ở phủ, huyện, châu cũng được thống nhất. Phủ có tri phủ chịu trách nhiệm kiểm
tra hoạt động của các huyện, huyện có tri huyện phụ trách chung các việc hộ
hôn, điền thổ, kiện tụng. Châu có tri châu cai quản.
Ba là, cải cách chế độ quan lại.
- Tuyển chọn, sử dụng, kiểm tra và giám sát quan lại công
khai, minh bạch.
Về thi tuyển, Lê Thánh Tông đặt ra 3 lệ thi: thi tuyển, bảo
cử, tập ấm để tìm kiếm, lựa chọn người hiền tài và tránh được căn bệnh “mua
quan bán chức”. (1) Lệ thi tuyển gồm
ba kỳ: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Chế độ thi tuyển được đảm bảo bằng các quy
chế, kỷ luật và chấm thi nghiêm túc. (2) Lệ bảo cử để
tránh bỏ sót nhân tài không có điều kiện dự thi. Người bảo cử phải lấy tước vị,
phẩm hàm đảm bảo người được cử xứng tài, xứng đức. Đề cử được trình lên bộ Lại,
qua kiểm tra của Lại Khoa và Ngự sử đài rồi tâu vua phê chuẩn. Nếu người được bảo
cử không xứng, người đề cử sẽ bị phạt. (3) Lệ tập ấm: áp dụng
cho con cháu, hoàng thân quốc thích, con quan văn, võ nhất phẩm, nhị phẩm, con
các viên quan từ tứ phẩm đến bát phẩm. Nếu chăm chỉ sẽ được học tại Chiêu văn
quán, cứ 3 năm xét phẩm hạnh và học vấn rồi thi khảo.
Về chế độ kiểm tra và giám sát quan lại, Lê Thánh Tông áp
dụng lệ khảo thi để đánh giá năng lực và khảo khóa để kiểm tra khả năng thực
hành của quan lại, từ đó sắp xếp công tác phù hợp. Ông cũng lập 6 Khoa ở trung
ương và Ngự sử đài tại 13 thừa tuyên để giám sát hoạt động của quan lại ở cả
trung ương và địa phương.
- Thực hiện mở rộng diện và đối tượng áp dụng chế độ “hồi
tỵ”.
Áp dụng quy tắc hồi tỵ (có nghĩa là tránh đi) thì những
người có quan hệ anh em, bạn bè không được làm quan cùng một chỗ. Quan lại
không được lấy vợ hoặc làm thông gia với người nơi mình cai quản. Không đưa
quan lại về quê hương nhậm trị, không được mua đất, ruộng, nhà tại nơi cai quản.
Lê Thánh Tông áp dụng chế độ “hồi tỵ” nhằm ngăn chặn quan
lại chia bè kéo cánh, tham nhũng, vi phạm pháp luật. Với những quy định cụ thể
và phạm vi áp dụng rộng rãi đã có sức răn đe, củng cố bộ máy nhà nước, ngăn
tình trạng bè phái trong các vấn đề nhạy cảm của nền hành chính.
- Khen thưởng, xử phạt quan lại nghiêm minh và đặc biệt
kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Vua Lê Thánh Tông khuyến khích quan lại tận tâm bằng cách
khen thưởng công minh, nêu rõ lý do họ được khen thưởng. Hình thức khen thưởng
cả về tinh thần (phẩm cấp, chức tước...) và vật chất (lương bổng, lộc điền...).
Đồng thời, ông nghiêm khắc phê bình, xử phạt công bằng, không phân biệt chức vụ,
kiên quyết chống tham nhũng. Trong Bộ luật Hồng Đức, 172/722 điều xử phạt quan
lại, 40 điều trực tiếp chống tham nhũng. Vua xử lý minh bạch, ngăn chặn oan sai
và giữ vững phép nước, răn đe và phòng ngừa vi phạm hiệu quả.
3. Giá trị từ
những cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông đối với xây dựng và hoàn thiện
thể chế chính trị Việt Nam hiện nay
Đối với công cuộc Đổi mới ở Việt
Nam hiện nay, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị có ý nghĩa
quan trọng. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, thể chế không phù hợp sẽ
kìm hãm sự phát triển. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng và xây dựng được một
thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh định hướng
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời
khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho
sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Từ những cải cách của Lê Thánh Tông,
nhiều nội dung có giá trị cần tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng.
Một là, về cải cách tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ,
với các cơ quan giám sát, chuyên trách hiệu quả.
Thời vua Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước được xây dựng gọn
nhẹ, tổ chức chặt chẽ thành một guồng máy vận hành thống nhất từ trung ương đến
địa phương. Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm thiết kế cơ quan chuyên trách kiểm
tra, giám sát. Lục Bộ hoạt động theo chức năng và Lục Khoa giám sát các hoạt động
của Lục Bộ, đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả, ngăn ngừa tệ quan
liêu, tham nhũng của quan lại,
Từ những cải cách đó chúng ta có thể vận dụng trong công
tác đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả như tiếp tục tinh giản bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
nhà nước; chuẩn hóa, luật hóa các văn bản quy phạm pháp luật về tinh giản biên
chế, quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ - các bộ,
ngành; xây dựng hành lang pháp lý để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống
nhất của Đảng và Chính phủ; thiết lập các cơ chế để thực hiện phân cấp, phân
quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ,...
Hai là, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm quản lý xã hội bằng pháp luật.
Lê Thánh Tông đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đặc biệt là Bộ luật Hồng Đức. Đây là công cụ giúp ông quản lý, răn đe và trừng
phạt đối với những cơ quan, chức quan, dân chúng làm trái pháp luật. Nhờ đó, bộ
máy hành chính vận hành hiệu quả, hạn chế tham nhũng và tạo nền tảng cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là
yêu cầu cấp bách. Một hệ thống pháp luật chặt chẽ, minh bạch không chỉ đảm bảo
tính tối thượng của pháp luật – một trong những nguyên tắc cốt lõi của nhà nước
pháp quyền – mà còn góp phần xây dựng một môi trường kinh tế - xã hội ổn định,
mở rộng dân chủ và thúc đẩy hội
nhập quốc tế.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn hạn chế,
gây khó khăn trong thực thi và chưa đảm bảo tính nghiêm minh tuyệt đối. Do đó,
cần tiếp tục cải cách theo hướng đồng bộ, minh bạch, dễ thực thi, đồng thời
nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật, để pháp luật thực sự trở thành công cụ quản
lý hiệu quả, thúc đẩy phát triển bền vững.
Ba là, về đổi mới cơ chế tuyển dụng, đào tạo và sử
dụng nhân tài nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có đức và tài.
Thời Lê Thánh Tông tập trung nhiều biện pháp để đội ngũ
quan lại thực hiện vai trò hiệu quả trong vận hành bộ máy nhà nước.
Hiện nay, để xây dựng đội ngũ cán bộ có đức và tài, cần đổi
mới cơ chế tuyển dụng, đào tạo và sử dụng cán bộ. Cụ thể: Tổ chức thi tuyển
công chức với nhiều hình thức đa dạng để tránh bỏ sót nhân tài. Đồng thời, việc
tổ chức các kỳ kiểm tra định kỳ và giám sát sát sao góp phần đánh giá liên tục
hiệu quả công tác của cán bộ, từ đó kịp thời điều chỉnh và bồi dưỡng nhằm nâng
cao năng lực. (có ý nghĩa như “lệ khảo thi” và “khảo khóa” thời Lê Thánh Tông).
Ngoài ra, tiếp tục áp dụng hiệu quả hơn quy tắc kiểu “hồi tỵ” trong sử dụng cán
bộ, tức là hạn chế mối quan hệ thân cận trong quá trình tuyển dụng và sử dụng,
sẽ ngăn chặn tiêu cực. Từ đó không chỉ góp phần xây dựng một nền hành chính
chuyên nghiệp mà còn củng cố niềm tin của nhân dân vào hệ thống chính quyền.
Kết luận
Lê Thánh Tông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh triều Lê
tồn tại nhiều biến động. Để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền
mạnh tất yếu phải cải cách thể chế chính trị bằng nhiều biện pháp mạnh mẽ, hiệu
quả. Những nội dung đó vẫn còn những giá trị lịch sử quan trọng để hiện nay,
trong bối cảnh mới, tiếp tục việc nghiên cứu kế thừa và phát huy. Những giá trị
trong cải cách thể chế chính trị của Lê Thánh Tông góp phần rút ra những bài học
cần thiết trong tinh gọn bộ máy nhà nước phù hợp, hiệu quả nhằm đưa đất nước
ngày càng hội nhập và phát triển.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Bá Đệ (2007), Một số
chuyên đề lịch sử Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1985), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II: Kỷ nhà Lê,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Lê Đức Tiết (1997), Lê Thánh Tông – vị vua anh
minh, nhà canh tân xuất sắc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Tường (2019), Tổ chức bộ
máy nhà nước quân chủ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Tp. Hồ Chí
Minh.