
Những ngày tháng tám năm 1945
sôi sục ở Thủ đô Hà Nội_Ảnh: Tư liệu TTXVN
1. Mở đầu
Độc lập, tự do là giá trị thiêng liêng và phổ
quát của toàn nhân loại. Độc lập là cơ sở, nền tảng để mỗi quốc gia - dân tộc tự
mình tồn tại, phát triển mà không phụ thuộc vào một quốc gia - dân tộc nào
khác. Dưới góc độ chính trị, độc lập có thể hiểu là “trạng thái của một nước hoặc
một dân tộc có chủ quyền về chính trị, không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc
khác”(1). Với vị trí địa lý có
tính chiến lược quan trọng về nhiều mặt, nên trong lịch sử, Việt Nam thường
xuyên phải chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước và giữ vững chủ quyền, giành
độc lập, tự do. Vì vậy, hơn bất cứ quốc gia, dân tộc nào trên thế giới, nhân
dân Việt Nam luôn hiểu và trân trọng giá trị của độc lập, tự do, “quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc
lập ấy”(2).
2. Nội dung
2.1. Độc lập, tự do là chân lý chỉ dẫn
nhân dân Việt Nam sẵn sàng hiến dâng máu xương để bảo vệ
Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và trịnh trọng tuyên
bố trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực
đã thành một nước tự do và độc lập”(3).
Điều đó khẳng định Việt Nam hoàn toàn bình đẳng với các quốc gia khác trên thế
giới về chủ quyền pháp lý - chính trị và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế
như quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội, đối ngoại,…
Nhưng nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa non trẻ vừa mới giành được đã bị đe dọa nghiêm trọng. Ngày 23-9-1945, theo
chân quân đội Anh, thực dân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn nhằm âm mưu quay trở lại
xâm lược nước ta một lần nữa. Nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng lúc này là phải
giữ được nền độc lập cho dân tộc. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định và
phát huy chủ quyền về pháp lý - chính trị và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế
để tăng cường, đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh nhằm loại trừ mưu đồ của thực
dân Pháp. Nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã giúp dân tộc ta trì hoãn
song không thể dập tắt được tham vọng xâm lược, chia cắt đất nước ta của thực
dân Pháp. Không thể để giá trị độc lập, tự do bị chà đạp, nhân dân Việt Nam quyết
tâm đứng lên: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”(4).
Sức mạnh của độc lập, tự do đã tập hợp toàn
dân đứng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc bằng mọi thứ vũ khí: “Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(5) và
bằng tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” để bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần ấy
đã giúp dân tộc ta vượt qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp
định Giơnevơ, công nhận và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Rõ ràng, khi người dân thấu hiểu và trân trọng
giá trị của độc lập, tự do thì luôn sẵn sàng hy sinh, quyết tâm giành lại độc lập,
tự do cho dân tộc. Lần đầu tiên, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được
ghi nhận trong một bản Hiệp định, được thế giới thừa nhận.
Nhưng đế quốc Mỹ đã ngang nhiên phá hoại Hiệp
định và dùng mọi thủ đoạn để thay thế thực dân Pháp, thực hiện chia cắt lâu dài
đất nước ta, xâm phạm nghiêm trọng nền độc lập dân tộc. Toàn dân tộc lại đoàn kết
một lòng, tiến hành hai chiến lược cách mạng ở cả hai miền Nam - Bắc. Với ý chí
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(6),
quân và dân ta đã làm nên thắng lợi trong trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên
không”, buộc đế quốc Mỹ phải ký vào Hiệp định Paris năm 1973, chấp nhận rút
quân về nước, tôn trọng quyền độc lập dân tộc… Một lần nữa, quyền độc lập, tự
do của nhân dân Việt Nam được thừa nhận trong bản Hiệp định. Nhưng phải đến năm
1975, với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến trường
kỳ 21 năm mới kết thúc, non sông thu về một mối, Bắc - Nam sum họp một nhà.
Công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh để lại và kiến thiết nước nhà được bắt
đầu trong độc lập, tự do và thống nhất.
2.2. Độc lập, tự do - động lực để Việt
Nam đạt nhiều thành tựu trong xây dựng và phát triển đất nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(7). Điều này cho thấy mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, giữa độc lập dân tộc với sự phát triển xã hội,
giữa phục hưng dân tộc với sự phát triển của tự do và hạnh phúc cho con người.
Quyền dân tộc (độc lập), quyền con người (tự do) còn biểu thị mối quan hệ hữu
cơ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề con người. Trong đó, quyền, lợi ích của dân tộc
được đặt lên trước và khẳng định: “Độc lập của dân tộc Việt Nam là thiêng liêng
nhất, là trên hết, trước hết và là tiền đề, là cơ sở cho tự do của con người Việt
Nam”(8). Không có độc lập dân tộc
thì không có tự do thực sự cho con người. Nói cách khác, “tự do chính là nội
dung của độc lập dân tộc, làm hoàn chỉnh ý nghĩa của độc lập dân tộc và độc lập
dân tộc là điều kiện bảo đảm để ngày càng hoàn thiện các giá trị tự do và hạnh
phúc của con người Việt Nam”(9).
Đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta đã thực sự làm cho nhân
dân được hưởng hạnh phúc, xứng đáng với vị thế là người dân tự do, là chủ và
làm chủ một nước độc lập.
Phát huy giá trị độc lập, tự do, từ một nước
bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao
vây, cấm vận, nhân dân Việt Nam đã “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(10) và “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(11). Ở vị thế của một đất nước độc lập, Việt
Nam đã lựa chọn và tự quyết định con đường phát triển của mình, đó là xây Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Để khơi nguồn sáng tạo không ngừng
của nhân dân, Đảng ta đã quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin
tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(12).
Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ và hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. “Tốc độ tăng trưởng, quy mô và sự
phát triển của nền kinh tế đạt được ở mức cao, từ năm 1986 đến năm 2025 đạt
bình quân 6%/năm. Quy mô nền kinh tế năm 2025 đạt khoảng 510 tỷ USD, tăng hơn
110 lần so với năm 1986 (4,5 tỷ USD), đưa Việt Nam tham gia vào nhóm 35 nền
kinh tế lớn nhất thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt 5.000 USD”(13).
Lĩnh vực văn hóa, xã hội, con người ngày càng
phát triển. Hoạt động giao lưu, quảng bá văn hóa Việt Nam được thực hiện chủ động,
tích cực. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề được nâng lên;
tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023(14);
chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện, năm 2023, Việt Nam đạt
HDI là 0,766, xếp hạng 93/193, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người
trung bình cao của thế giới(15);
tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường; chỉ số đổi mới, sáng tạo
toàn cầu (GII) của Việt Nam xếp hạng 46/132 năm 2023(16), tăng 13 bậc so với năm 2016; năm 2025,
Việt Nam đứng ở vị trí số 46 toàn cầu trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới(17).
Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng
hóa, Việt Nam đã phá vỡ được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch trên
thế giới, thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia là thành viên của Liên
hợp quốc; đã xây dựng được các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác
chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. “Công
tác đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế
và uy tín của đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; giải quyết được nhiều vấn đề biên giới trên bộ và trên biển với các
nước có liên quan, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực”(18).
Có được thành tựu trên là do sự “Kiên định, vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng Nhà nước tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ
nghĩa; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, sức sáng tạo, ý chí và khát vọng của
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, chúng ta
tin tưởng chắc chắn rằng, đất nước ta nhất định sẽ phát triển ngày càng đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn, Nhân dân ta nhất định sẽ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc
hơn”(19).
2.3. Độc lập, tự do - kim chỉ nam đưa
Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên phát triển mới
Gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, những
thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã đạt được sẽ tạo lập nền tảng vững chắc
để Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng. Đó là “kỷ nguyên
phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng
thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là
dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm
châu”(20). Trong kỷ nguyên mới,
Việt Nam cần tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức,
đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Chúng ta phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuân thủ “các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(21).
Đó cũng là “nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững
chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(22).
Nhằm khơi dậy, phát huy sức sáng tạo không giới
hạn của nhân dân trong mọi hoạt động, trên mọi lĩnh vực, tạo đòn bẩy phát triển,
tranh thủ tận dụng nhiều cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để
phát triển bứt phá, Đảng đã ban hành các nghị quyết quan trọng tạo nên một chỉnh
thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước, đó
là: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 về đột phá phát triển khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tầm nhìn đến năm 2045; Nghị
quyết số 59-NQ/TW ngày 24-01-2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị
quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số
66-NQ/TW ngày 30-4-2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Điểm đột phá chung của cả 4
nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ”
sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ
“cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”. Đây là bước
chuyển tư duy căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu
thế toàn cầu trong kỷ nguyên số.
Năng lực lãnh đạo của Đảng đã quy tụ được khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân ta tin tưởng, quyết tâm, trách nhiệm bảo vệ
giá trị thiêng liêng “độc lập, tự do” và không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn
thiện để “độc lập, tự do” luôn là chân lý của thời đại. Mỗi người dân Việt Nam
cần có trách nhiệm cùng với Đảng và cả hệ thống chính trị xây dựng đất nước
giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu, hiện thực hóa khát
vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tiếp tục xây dựng, phát triển, hoàn thiện hệ
giá trị quốc gia: “Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn
vinh, văn minh, hạnh phúc”(23) để
giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do từ thắng lợi to lớn mà Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 mang lại tiếp tục được phát huy và giàu sức sống.
3. Kết luận
Có thể khẳng định, niềm tin của nhân dân với
Đảng là yếu tố then chốt bảo đảm mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ sẽ tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đất nước hiện thực
hóa các mục tiêu chiến lược: “đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là
nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm
2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(24). Với quyết tâm chính trị cao, sự đồng
thuận xã hội và niềm tin sắt son, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam sẽ vững vàng và thắng lợi.
(nguồn
lyluanchinhtri.vn)
Ngày
nhận bài: 23-6-2025; Ngày bình duyệt:14-8-2025; Ngày duyệt đăng:15-8-2025.
Email
tác giả: tuansonlsd@gmail.com
(1) Trung tâm Từ điển học: Từ điển Tiếng
Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2015, tr.541.
(2), (3), (4), (5), (7) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.3, 3,
534, 534, 64.
(6), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15,
Sđd, tr.130, 614.
(8), (9) Viện Sử học: Cách mạng tháng
Tám 1945 với sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.16, 16.
(11), (12), (21), (22), (24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.25, 27, 33, 33, 112.
(13), (18), (23) ĐCSVN: Dự thảo Các văn kiện trình
Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025,
tr.206, 208, 34.
(14) Tuổi thọ trung bình của người
Việt Nam đạt 74,5 tuổi. https://baochinhphu.vn, ngày 11-7-2024.
(15) UNDP: Viet Nam stands out in
human development amid global slowdown, says UNDP. https://www.undp.org,
May 12, 2025.
(16) Global Innovation Index 2023: Viet
Nam ranking in the Global Innovation Index 2023. https://www.wipo.int/,
September 2023.
(17) Vietnam ranks second in
Southeast Asia in happiness index. https://en.vietnamplus.vn, March
21, 2025.
(19) Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. https://baochinhphu.vn,
ngày 27-7-2024.
(20) Một số nội dung cơ bản về kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất
nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn,
ngày 01-11-2024.