
Công nghệ thực tế ảo giúp các
doanh nghiệp du lịch cung cấp các dịch vụ thuận tiện nhất, tốt nhất tới khách
du lịch_Ảnh: TTXVN
1. Mở đầu
Theo quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa năm 2017, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có quy mô lao động
tham gia bảo hiểm xã hội và doanh thu hoặc tổng nguồn vốn không vượt quá một
ngưỡng nhất định, được chia thành ba loại: siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Tính đến năm
2024, Việt Nam có khoảng hơn 850.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó hơn
98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 45% GDP và
tạo ra hơn 60% việc làm trong nền kinh tế (1).
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và công nghệ số đang đặt ra yêu cầu cấp thiết
về chuyển đổi số (CĐS) cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
đó không chỉ là quá trình tích hợp công nghệ số, mà còn là bước tái cấu trúc
toàn diện giúp doanh nghiệp tăng năng suất và khả năng thích ứng.
Thời gian vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã ban
hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, như Chương trình Chuyển đổi số quốc
gia và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm thúc đẩy quá trình này. Các nền
tảng chuyển đổi số như SMEdx và OneSME đang giúp nhiều doanh nghiệp tiếp cận
công nghệ chi phí thấp. Trong bối cảnh hiện nay, việc tiếp tục hoàn thiện các
chính sách nhằm thúc đẩy CĐS cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc làm quan trọng,
cần thiết.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng chuyển đổi số trong
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Chuyển đổi số (digital transformation) là quá
trình tích hợp công nghệ số vào mọi hoạt động của doanh nghiệp nhằm thay đổi mô
hình kinh doanh, tăng hiệu quả và sáng tạo(2). Chuyển đổi số đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối
cảnh kinh tế số hiện nay: (1) CĐS giúp nâng cao hiệu quả quản lý và vận hành
thông qua tự động hóa các quy trình như kế toán, bán hàng, nhân sự. (2) giúp
doanh nghiệp tiếp cận khách hàng nhanh chóng và hiệu quả hơn nhờ các nền tảng số
như mạng xã hội, sàn thương mại điện tử. (3) tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở
rộng thị trường, vượt qua giới hạn địa lý. (4) doanh nghiệp có thể tối ưu chi
phí hoạt động, từ đó tăng khả năng cạnh tranh. (5) CĐS góp phần cải thiện trải
nghiệm khách hàng thông qua dịch vụ cá nhân hóa. Ngoài ra, dữ liệu thu thập từ
các nền tảng số còn hỗ trợ doanh nghiệp phân tích hành vi khách hàng và ra quyết
định chính xác. Chuyển đổi số còn giúp doanh nghiệp thích ứng nhanh với biến động
thị trường. Đặc biệt, trong bối hiện nay, chuyển đổi số trở thành “chìa khóa”
thành công của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa nếu không đổi mới sẽ
khó tồn tại và phát triển. Do đó, việc đầu tư vào công nghệ, nâng cao kỹ năng số
và xây dựng chiến lược chuyển đổi số là xu thế tất yếu.
“Đối với khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa là lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, CĐS không
chỉ mang lại lợi ích về hiệu quả hoạt động, mở rộng thị trường mà còn là điều
kiện sống còn để nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh số hóa toàn cầu.
Thực tiễn cho thấy, doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường gặp khó khăn trong quá trình CĐS do thiếu vốn, nhân lực và kỹ năng; hầu
hết chỉ sử dụng công cụ cơ bản (email, mạng xã hội), trong khi việc ứng dụng
công nghệ nâng cao như AI, IoT, điện toán đám mây còn rất hạn chế(3). Bên cạnh đó, lãnh đạo thiếu tầm nhìn hoặc
ngại thay đổi có thể làm gián đoạn tiến trình CĐS. Từ kinh nghiệm quốc tế, có
ba nhóm hỗ trợ chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: (1) nâng cao năng lực
nội tại; (2) cải thiện tiếp cận công nghệ - tài chính; (3) hoàn thiện thể chế.
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương
của Đảng, Chính phủ đang đẩy mạnh CĐS trên toàn quốc, trong đó doanh nghiệp nhỏ
và vừa được xác định là trọng tâm ưu tiên. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 20% GDP vào
năm 2025 và 30% vào năm 2030.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai Chương
trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025, hướng đến mục tiêu
100.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được tư vấn, đào tạo và kết nối giải pháp. Đến
cuối năm 2024, gần 14.200 lượt doanh nghiệp được đào tạo; hơn 150 tư vấn viên hỗ
trợ trực tiếp 400 doanh nghiệp với tổng cộng 32.000 giờ tư vấn. Cổng thông tin
digital.business.gov.vn cung cấp tài liệu, bài giảng, công cụ đánh giá CĐS và
đã thu hút trên 2 triệu lượt truy cập, với 5.000 doanh nghiệp tự đánh giá mức độ
sẵn sàng.
Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông triển
khai chương trình SMEdx, phát triển các nền tảng số Make in Vietnam. Đến năm
2022, hơn 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận, trong đó 70.000 doanh nghiệp
đã sử dụng các nền tảng như kế toán, bán hàng, chữ ký số, điện toán đám mây. Việc
phát triển Mô hình Software as a Service (SaaS) - một mô hình cung cấp phần mềm
dựa trên nền tảng đám mây, trong đó các ứng dụng được phát triển, lưu trữ và quản
lý bởi nhà cung cấp dịch vụ, giúp doanh nghiệp sử dụng công nghệ linh hoạt mà
không cần đầu tư hạ tầng.
Về hóa đơn điện tử từ máy tính tiền: đến giữa
năm 2024 có 67.658 cơ sở kinh doanh đăng ký, với 516 triệu hóa đơn được tạo. Ứng
dụng di động đạt trên 10 triệu người dùng chủ yếu thuộc lĩnh vực thanh toán điện
tử.
Một số mô hình khởi nghiệp startup trong lĩnh
vực fintech, edtech, logistics đã tận dụng công nghệ mở rộng nhanh chóng; nhiều
doanh nghiệp truyền thống bắt đầu số hóa quy trình như áp dụng hệ thống theo
dõi đơn hàng, máy móc tự động...
Tuy nhiên, CĐS trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
còn nhiều hạn chế, chỉ 2,2% doanh nghiệp làm chủ công nghệ, 6,2% xác định rõ mục
tiêu CĐS và 7,6% có kế hoạch cụ thể. Đáng chú ý, 48,8% doanh nghiệp từng dùng
giải pháp số nhưng sau đó ngừng do không còn phù hợp(4).
Tính đến tháng 6-2024, tổng số lượt doanh
nghiệp tiếp cận Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đạt 1,22 triệu lượt;
333.950 doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số do chương trình cung cấp.
Đã có 63/63 tỉnh và 13/22 bộ, ngành hoàn thành tích hợp hệ thống thông tin thủ
tục hành chính; còn 6 bộ ngành chưa hoàn tất tích hợp các thủ tục quan trọng(5). Việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa
các cơ quan nhà nước còn hạn chế, khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thể
tiếp cận đầy đủ dịch vụ công số toàn trình.
Nhìn chung, tiến trình CĐS trong doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Việt Nam vẫn ở giai đoạn đầu. Dù đã có nhiều chính sách và công cụ
hỗ trợ, số doanh nghiệp thực sự bước vào CĐS còn khiêm tốn do các nguyên nhân
chủ yếu sau:
Thứ nhất, hạn chế về
tài chính và nhân lực. Theo khảo sát, chỉ 36,7% doanh nghiệp có ngân sách đáp ứng
nhu cầu CĐS, 43,3% có dự toán nhưng không đủ, và 20% hoàn toàn không có ngân
sách cho CĐS. Ngoài ra, hơn 60% doanh nghiệp trì hoãn CĐS vì chi phí đầu tư
công nghệ cao mà hiệu quả chưa thấy rõ trong ngắn hạn(6).
Thiếu hụt nhân lực chuyên môn cho CĐS tại các
doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là vấn đề nghiêm trọng. Theo VCCI, 54% dự án CĐS bị
trì hoãn do thiếu nhân sự kỹ thuật(10).
Trong ngành logistics, hơn 42% doanh nghiệp cho rằng thiếu vốn và nhân sự là lý
do chính khiến họ chậm triển khai CĐS(7).
Thứ hai, nhiều
doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu hiểu biết đầy đủ về CĐS. Theo khảo sát của VINASA
năm 2019, 30,7% doanh nghiệp nghe nói nhưng không biết bắt đầu từ đâu và 5,1%
chưa hiểu gì về CĐS. Như vậy, gần 36% doanh nghiệp còn mơ hồ về lợi ích và
phương pháp triển khai. Tâm lý “chờ xem”, ngại rủi ro và ngại thay đổi khiến họ
không hành động, dù đã được truyền thông rộng rãi.
Thứ ba, việc lựa
chọn và triển khai giải pháp công nghệ phù hợp còn nhiều trở ngại. Doanh nghiệp
nhỏ và vừa lúng túng trong việc chọn phần mềm hoặc sử dụng giải pháp quá phức tạp,
không phù hợp quy mô; một số doanh nghiệp dừng sử dụng do không thấy hiệu quả(8).
Thứ tư, lo ngại
về an ninh mạng và bảo mật dữ liệu khiến doanh nghiệp e dè khi đưa dữ liệu lên
môi trường số. Họ thiếu hệ thống bảo mật chuyên nghiệp và kiến thức phòng tránh
rủi ro an ninh, trong khi các vụ tấn công mạng ngày càng phổ biến.
2.2. Khuyến nghị chính sách
Để thúc đẩy CĐS hiệu quả trong khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa, cần một chiến lược đồng bộ, có sự phối hợp giữa Nhà nước -
doanh nghiệp - tổ chức hỗ trợ. Trong đó, Nhà nước cần có vai trò dẫn dắt, đưa
ra những cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp CĐS là:
Thứ nhất, hoàn thiện
chính sách và khung pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa CĐS
Đây là nền tảng quan trọng để thúc đẩy chuyển
đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản liên quan để cập nhật các nội dung mới về
chuyển đổi số, kinh tế số. Chính phủ nên ban hành chương trình hỗ trợ CĐS giai
đoạn 2026-2030 với mục tiêu cụ thể, như 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng nền
tảng số và 50% tích hợp công nghệ mới như 5G, IoT. Cần xây dựng các chính sách
ưu đãi thuế, giảm chi phí tuân thủ pháp luật để khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư công nghệ. Đồng thời, hoàn thiện hạ tầng pháp lý cho giao dịch số, chữ ký số,
lưu trữ đám mây, bảo vệ dữ liệu cá nhân. Các quy định về an toàn thông tin, chống
tội phạm mạng cần được cập nhật phù hợp thực tiễn. Tăng cường kiểm soát chất lượng
các nền tảng số cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đẩy mạnh cơ chế
phối hợp giữa các bộ, ngành để tránh chồng chéo. Từ đó, tạo môi trường pháp lý
minh bạch, ổn định, hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào CĐS.
Thứ hai, nâng cao
nhận thức và khơi dậy động lực CĐS cho doanh nghiệp
Cần đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích thiết thực
của CĐS thông qua việc tổ chức các diễn đàn, hội thảo, chương trình truyền
hình, chiến dịch truyền thông trên nền tảng số để lan tỏa thông tin. Việc chia
sẻ mô hình CĐS thành công từ doanh nghiệp đi trước sẽ tạo niềm tin và cảm hứng
cho doanh nghiệp đi sau. Đồng thời, nên xây dựng các ấn phẩm, video hướng dẫn dễ
hiểu, phù hợp với từng ngành nghề. Cần phát huy vai trò của hiệp hội ngành nghề,
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc tư vấn, đồng hành cùng
doanh nghiệp. Các địa phương nên tổ chức định kỳ Ngày Chuyển đổi số, gắn với hoạt
động tư vấn và kết nối công nghệ. Khuyến khích chính quyền cấp xã, phường cùng
vào cuộc hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn. Tạo ra môi trường học hỏi cởi mở,
thân thiện sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn thay đổi. Quan trọng hơn, cần nuôi dưỡng
tư duy đổi mới và khát vọng vươn lên trong mỗi chủ doanh nghiệp.
Thứ ba, phát
triển kỹ năng số và đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển đổi số
Phát triển kỹ năng số và đào tạo nguồn nhân lực
là nền tảng quan trọng để doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện chuyển đổi số hiệu
quả. Cần xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn, thực tiễn cho lãnh đạo và
nhân viên, tập trung vào kỹ năng sử dụng phần mềm, thương mại điện tử, an toàn
thông tin. Chính phủ nên hỗ trợ phát triển nền tảng học trực tuyến và cung cấp
các khóa học miễn phí hoặc trợ giá. Các trường nghề, cao đẳng, đại học cần mở
thêm ngành học mới liên quan đến chuyển đổi số như quản trị nền tảng số, dữ liệu
lớn, IoT. Đồng thời, cần hình thành mạng lưới chuyên gia tư vấn và cố vấn số để
đồng hành cùng doanh nghiệp. Mô hình đào tạo tại chỗ, thông qua sự hợp tác giữa
trường - viện - doanh nghiệp sẽ giúp người học tiếp cận công nghệ thực tế. Nhà
nước nên có chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khi đầu tư vào đào tạo
kỹ năng số cho nhân viên. Việc phát triển hệ thống chứng chỉ kỹ năng số cũng cần
được thúc đẩy để chuẩn hóa chất lượng nguồn nhân lực. Các địa phương nên thành
lập trung tâm đào tạo chuyển đổi số và “phòng thí nghiệm số” để doanh nghiệp thử
nghiệm công nghệ mới. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các
cơ sở đào tạo sẽ là chìa khóa nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên mới.
Thứ tư, hỗ trợ
tài chính và tiếp cận công nghệ phù hợp
Đây là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp nhỏ
và vừa vượt qua rào cản trong chuyển đổi số. Nhà nước cần thành lập Quỹ hỗ trợ
chuyển đổi số quốc gia, cung cấp vốn vay ưu đãi hoặc tài trợ một phần chi phí
mua phần mềm, thuê dịch vụ công nghệ. Khuyến khích các ngân hàng phát triển sản
phẩm tín dụng số dựa trên dữ liệu giao dịch, hóa đơn điện tử, không yêu cầu tài
sản thế chấp. Đa dạng hóa hình thức hỗ trợ như voucher công nghệ, gói dùng thử
miễn phí từ doanh nghiệp công nghệ uy tín. Đẩy mạnh hợp tác công - tư để triển
khai các giải pháp “may đo” phù hợp với từng ngành nghề và quy mô doanh nghiệp.
Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các nền tảng công nghệ Make in Vietnam
với chi phí hợp lý, dễ sử dụng. Xây dựng hệ thống đánh giá tín nhiệm số giúp
doanh nghiệp chứng minh năng lực tài chính và kỹ thuật khi tiếp cận vốn. Tăng
cường kết nối doanh nghiệp với quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức quốc tế có chương
trình tài trợ chuyển đổi số. Tổ chức hội chợ công nghệ, tuần lễ chuyển đổi số
giúp doanh nghiệp tìm kiếm đối tác công nghệ phù hợp. Đây là bước đệm quan trọng
để doanh nghiệp tăng tốc số hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền
vững.
Thứ năm, xây dựng
hệ sinh thái hỗ trợ và bảo đảm niềm tin số
Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh chương trình
“bình dân học vụ số”, phát triển mạng lưới tư vấn, đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật đồng
bộ trên cả nước. Xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ số, bảo đảm minh bạch
và uy tín của các nhà cung cấp. Khuyến khích giải pháp công nghệ “may đo” phù hợp
với từng lĩnh vực và quy mô doanh nghiệp. Đồng thời, cần ban hành khung pháp lý
rõ ràng về bảo vệ dữ liệu cá nhân, an toàn thông tin mạng và giao dịch số. Hỗ
trợ doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ bảo mật giá thấp nhưng chất lượng. Tăng
cường truyền thông về an toàn số, nâng cao nhận thức phòng chống rủi ro mạng.
Xây dựng cổng thông tin tra cứu giải pháp công nghệ uy tín, dễ tiếp cận. Phát
triển nền tảng đánh giá tín nhiệm số và xếp hạng uy tín nhà cung cấp công nghệ.
Sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp công nghệ và hiệp hội nghề nghiệp sẽ tạo
nên hệ sinh thái tin cậy, thúc đẩy quá trình CĐS bền vững.
Trong bối cảnh quốc tế hóa và toàn cầu hóa mạnh
mẽ, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm quốc tế về CĐS doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm
rút ngắn quá trình này. Nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Xinhgapo, Đức đã xây dựng
chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa với lộ trình rõ ràng, gắn kết giữa
Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức công nghệ. Hàn Quốc triển khai chương trình
Smart Factory hỗ trợ 70% chi phí số hóa quy trình sản xuất. Singapore phát triển
bộ công cụ số hóa cơ bản (starter pack) giúp doanh nghiệp bắt đầu dễ dàng. Đức
chú trọng kết nối giữa viện nghiên cứu - doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn
số hóa. Việt Nam có thể học hỏi mô hình tài chính số, tín dụng không tài sản thế
chấp từ Ấn Độ và Inđônêxia. Cần nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng chỉ số đánh giá
mức độ số hóa của doanh nghiệp như mô hình EU. Tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp
nhận nguồn viện trợ kỹ thuật từ OECD, ADB, GIZ, USAID… Đồng thời, lựa chọn linh
hoạt mô hình phù hợp với điều kiện địa phương, ngành nghề cụ thể. Việc học hỏi
có chọn lọc sẽ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chuyển đổi số hiệu quả và
bền vững.
3. Kết luận
CĐS là xu hướng chủ đạo định hình tương lai
doanh nghiệp. Đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa là lực lượng chiếm tỷ trọng
lớn trong nền kinh tế, CĐS không chỉ mang lại lợi ích về hiệu quả hoạt động, mở
rộng thị trường mà còn là điều kiện sống còn để nâng cao năng lực cạnh tranh
trong bối cảnh số hóa toàn cầu. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, dù doanh nghiệp
nhỏ và vừa đã có những bước đi đầu tiên, mức độ ứng dụng còn thấp, chủ yếu mới
dừng ở mức cơ bản. Các rào cản về nhận thức, tài chính, nhân lực… vẫn là trở lực
chính.
Trong bối cảnh đó, vai trò kiến tạo và “bà đỡ”
từ Nhà nước đóng vai trò then chốt. Các chính sách hỗ trợ cần được triển khai đồng
bộ, từ nâng cao nhận thức, phát triển kỹ năng, hỗ trợ tài chính đến xây dựng hệ
sinh thái công nghệ an toàn và phù hợp với đặc thù doanh nghiệp nhỏ và vừa.
(nguồn
lyluanchinhtri.vn)
Ngày
nhận bài: 06-7-2025; Ngày bình duyệt: 10-7-2025; Ngày duyệt đăng: 27-7-2025.
Email
tác giả: thangvq7979@gmail.com
(1) Tùng Linh: Bộ trưởng Nguyễn
Chí Dũng: doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn có vị trí đặc biệt, đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội, https://mpi.gov.vn, ngày
28-8-2024.
(2) G.Vial: Understanding digital
transformation: A review and a research agenda, The Journal of Strategic
Information Systems, Vol.28, Issue 2, June 2019, p.118-144.
(3) OECD: The Digital Transformation of
SMEs, OECD Studies on SMEs and Entrepreneurship. OECD
Publishing, https://doi.org/10.1787/bdb9256a-en.
(4) Hạnh Nguyễn: Báo cáo chuyển đổi số:
Chỉ có 2,2% doanh nghiệp làm chủ công nghệ, https://www.vietnamplus.vn,
ngày 16-2-2023.
(5) Bộ Thông tin và Truyền thông: Báo
cáo tình hình chuyển đổi số quốc gia tháng 6 năm 2024, https://mic.mediacdn.vn,
(6) VINASA: Chuyển đổi số: Khi chi phí
không còn là rào cản, https://www.vinasa.org.vn.
(7) Ngọc Quỳnh: Chuyển đổi số của doanh
nghiệp logistics còn nhiều khó khăn, https://www.vietnamplus.vn, ngày
16-5-2022.
(8) Vietnam Investment Review: Over
57.5% of Vietnamese SMEs struggle with digital transformation: How can they
cope with the challenge?, https://vir.com.vn.