Từ khóa: Cách
mạng Tháng Tám năm 1945; Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.
Những
ngày Tháng Tám lịch sử ở Hà Nội. (Ảnh:
hochiminh.vn)
Đặt vấn đề
Sau
khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận lãnh sứ mệnh lịch sử trước dân
tộc, lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 - 1931 và 1936 - 1939, chuẩn bị những
tiền đề cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đảng đã kịp thời chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược cách mạng khi tình hình trong nước và quốc tế có những
chuyển biến mau lẹ, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trên hết và
phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Với sự chủ
động, sáng tạo và kinh nghiệm của 15 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân đoàn kết, nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền với chiến
thuật linh hoạt, chớp thời cơ ngàn năm có một. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên nhân dân làm chủ vận mệnh đất nước,
đồng thời cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, là thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trong
thế kỷ XX. Sửa soạn khởi nghĩa chu đáo; chiến thuật mềm dẻo, khôn khéo, phù
hợp; nghệ thuật chớp thời cơ và phát huy sức mạnh quần chúng hiệu quả của Đảng là
những yếu tố góp phần làm nên thắng vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945.
1. Quá trình chuẩn bị cho Tổng
khởi nghĩa
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng về công
tác tổ chức và chuẩn bị khởi nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sự chuẩn bị
cho cuộc Tổng khởi nghĩa chu đáo đến mức nghệ thuật trên mọi lĩnh vực.
Một
mặt, thống nhất các lực lượng cách mạng nhân dân, huy động nhân lực và tài lực,
để kích thích lòng yêu nước của nhân dân, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại
khủng bố trắng để bảo vệ những quyền và lợi ích hàng ngày.
Mặt
khác, phát triển các tổ chức bán quân sự như đội tự vệ, đào tạo cán bộ quân sự
và chính trị, mua sắm vũ khí, xây dựng và củng cố chiến khu, binh vận, huấn
luyện nhân dân làm công tác phá hoại, thực hiện vườn không nhà trống... phát
động chiến tranh du kích, giành chính quyền địa phương. Về đội tự vệ cũng cần
có sự trang bị căn cứ theo nhiệm vụ cụ thể: “Đội tự vệ chiến đấu hay tiểu tổ du
kích phải có võ khí cần cho việc đánh du kích, ví dụ: súng ống, bom đạn, giáo
mác, cung nỏ, v.v.. Đội tự vệ thường phải có khí cụ phá hoại như sau: mìn, địa
lôi phục, cuốc xẻng, kìm búa, lắc lê, kích, xà beng và bản đồ để tiện việc điều
tra những cơ quan quân sự của địch”[1, tr.354].
Trong
bất kỳ cuộc cách mạng nào, tinh thần hy sinh chưa đủ bảo đảm cho sự thắng lợi, muốn
thắng lợi phải chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa. Chuẩn bị về quân sự, lập
căn cứ địa, tổ chức quân đội cơ bản, vũ trang bộ đội và nhân dân. Điều kiện cho
khởi nghĩa được chuẩn bị tỉ mỉ, chi tiết, từ việc biên soạn các tài liệu tuyên
truyền, phổ biến, đến hướng dẫn, luyện tập. Biên soạn và phát hành các tài liệu
như Chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, Hãy tích
cực sửa soạn khởi nghĩa, Sắm vũ khí đuổi thù chung, Tiến tới tổng khởi nghĩa... và các sách huấn luyện chiến thuật du kích. Về căn cứ địa cách mạng,
từ cuối năm 1941 hai căn cứ địa là Bắc Sơn - Đình Cả (Lạng Sơn - Thái Nguyên) và
Cao Bằng - Bắc Kạn. Về quân đội, thành lập Việt
Nam Giải phóng quân từ phong trào đấu tranh chống khủng bố trắng (1941-1945) và Việt
Nam cứu quốc quân phôi thai trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (10 - 1940),
phát triển trong du kích Đình Cả, Tràng Xá (8 - 1941 đến 4 - 1942) và trong
cuộc đấu tranh vũ trang lần thứ hai ở Đình Cả (cuối năm 1942), đến năm 1945 hai đạo quân này đã thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
Làm
cho quần chúng nhân dân có ý thức về công việc sửa soạn khởi nghĩa và tích cực
tham gia sửa soạn khởi nghĩa, đồng thời kết hợp hành động quân sự của du kích
với hành động của quần chúng, làm cho quần chúng nhận thức rõ sự cần thiết của
vũ trang tiến tới giành độc lập. Những cuộc đấu tranh chống Nhật, Pháp dồn làng
bắt người, chống thu thóc, bắt lính, bắt phu, chống phá mầu trồng đay hoặc càn
hàng, cướp chợ... đã xúc tiến công việc vũ trang quần chúng, tập dượt cho quần
chúng mạnh dạn tiến tới tổng khởi nghĩa.
2. Chủ động, sáng tạo trong nhận diện tình hình và linh hoạt
trong phương pháp đấu tranh
Sau
cuộc chính biến ngày 9 - 3 -1945, Việt Minh phát động đánh du kích, giành chính
quyền địa phương, tổ chức vùng thượng du và trung du Bắc Bộ thành căn cứ địa
kháng Nhật. Đồng thời, Việt Minh thay đổi các khẩu hiệu, các hình thức tuyên
truyền, tổ chức và đấu tranh để động viên quần chúng, huy động toàn dân khởi
nghĩa giành chính quyền một cách mau lẹ.
Trục
tâm của công tác tuyên truyền cốt yếu vạch mặt phát xít Nhật, đánh đổ tất cả
những ảo tưởng lợi dụng Nhật, hợp tác với Nhật, hòng dùng những khả năng hợp
pháp đòi cải cách... Với hình thức tuyên truyền phổ thông là diễn thuyết ở các
xí nghiệp, trường học, chợ, các ngả đường, công khai trưng cờ, băng-rôn,
áp-phích và phát các tài liệu cách mạng. Đồng thời kết hợp hình thức tuyên
truyền đặc biệt là vũ trang tuyên truyền bằng mọi cách, kể cả cách vũ trang
tuần hành và du kích.
Về đấu
tranh, giải quyết nạn đói là vấn đề cấp thiết, lãnh đạo quần chúng phá kho thóc
của Nhật, tùy tình thế, biến các cuộc biểu tình đi xúc thóc thành các cuộc biểu
tình thị uy vũ trang. Hình thức đấu tranh phổ thông là biểu tình vũ trang, kết
hợp với hình thức đấu tranh đặc biệt là du kích ở các cùng có địa thế, dùng Đội danh dự trừ gian ở thành thị và thôn
quê.
Về tổ
chức, khéo léo vận dụng những tổ chức quá độ để thực hiện chính quyền địa
phương, đặc biệt là phát triển những đội tự vệ cứu quốc và tự vệ chiến đấu hay
tiểu tổ du kích, tổ chức các đội dân quân. Hình thức tổ chức phổ thông là các hội cứu quốc, nhất là tự vệ cứu quốc, tự
vệ chiến đấu. Hình thức tổ chức đặc biệt là Ủy
ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ lâm thời, các Ủy ban
nhân dân, Ủy ban giải phóng - một hình thức tổ chức vừa có tính hành chính,
chính trị vừa có tính quân sự (tính chất tiền chính phủ), song song tồn tại với
các cơ quan hành chính địa phương của Nhật. Sau ngày Tổng khởi nghĩa, các Ủy
ban này đã biến thành những cơ quan hành chính chính thức ở địa phương, sau nữa
là Ủy ban khởi nghĩa Toàn quốc, Ủy ban hành động ở mỗi xứ hay mỗi địa phương...
Như vậy, từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945, chiến thuật của Việt Minh thể hiện rõ
sự mềm dẻo, linh hoạt.
Một là, biết lợi dụng triệt để và kịp thời
những khả năng sau ngày Nhật đảo chính Pháp để lãnh đạo nhân dân chủ động chuyển
qua các hình thức đấu tranh, tổ chức cao và mới, không bị động trước những diễn
biến nhanh của tình hình. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, vũ trang tuyên truyền,
quần chúng biểu tình, tuần hành thị uy, đánh úp các đồn lẻ, các phủ huyện ở
đồng bằng, tiêu trừ quân Nhật, tổ chức các đội dân quân ngay cả ngoài khu du
kích... cho thấy chiến thuật linh động và mềm dẻo. Các hoạt động này đã khiến
cho quân thù rối loạn, đồng thời phát huy cao độ tinh thần cứu quốc, sáng kiến
của quần chúng trong đấu tranh, lôi kéo các tầng lớp lừng chừng và phổ biến
phong trào cứu quốc nhanh chóng ra khắp nước.
Hai là, nhận diện đúng tình hình và chọn
đúng việc mấu chốt phải làm ngay và tập trung hết tâm lực để làm cho bằng được.
Sự kiện Nhật đảo chính Pháp xảy đến giữa lúc nạn đói đang hoành hành dân tộc
Việt Nam. Hàng triệu đồng bào chết đói bên cạnh những kho thóc đầy ắp của Nhật.
Khi đó, việc lãnh đạo quần chúng nhân dân vũ trang đánh phá các kho tóc của
Nhật và các đồn điền tích trữ đầy nông sản của thực dân Pháp chính là một việc
mấu chốt mà Đảng và Mặt trận Việt Minh đã nắm lấy và giải quyết thấu đáo. Từ
đây, quần chúng đông đảo có tổ chức cũng như chưa có tổ chức hăng hái tham gia
phong trào kháng Nhật, càng tham gia càng nhận rõ bản chất của kẻ thù và nhận
thức được sức mạnh của mình. Phong trào cứu quốc phát triển rầm rộ, nhân dân vũ
trang nhanh chóng, thành lập các đội tự vệ, Ủy ban giải phóng hình thành ở
nhiều tỉnh.
Ba là, vận dụng linh hoạt các hình thức tổ
chức quá độ như Ủy ban nhân dân cách mạng, Ủy ban công nhân cách mạng, Ủy ban
giải phóng dân tộc Việt Nam, lấn át và làm tê liệt bộ máy chính quyền địch.
Điều này mang lại cho nhân dân một cơ hội tập dần công việc hành chính, làm cho
nhân dân lần đầu tự mình cầm lấy vận mệnh của mình, tự mình cởi xiềng và cải
thiện đời sống cho mình bằng phương pháp trực tiếp, bỏ qua chính quyền của phát
xít Nhật và bè lũ tay sai. Những tổ chức quá độ ấy đã động viên và hiệu triệu
quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng, làm cho mặt trận dân tộc
thống nhất chống Nhật phát triển rộng khắp, gây mầm cho nhà nước Việt Nam mới.
Sau cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám, những Ủy ban giải phóng chuyển thành những
cơ quan hành chính - một đặc sắc trong chiến thuật trong thời kỳ tiền khởi
nghĩa.
3. Kiên quyết và kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa
Tổng
khởi nghĩa nổ ra đúng lúc, kịp thời và giành chính quyền mau lẹ. Nếu cuộc Tổng
khởi nghĩa nổ ra ngay ngày 9 - 3 - 1945 khi Nhật vừa đảo chính, đánh đổ Pháp thì
cách mạng có thể tổn thất nhiều, chính quyền chưa thể thành lập do Nhật lúc đó
còn mạnh. Do vậy, Đảng chọn phương án khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền
bộ phận. Nếu sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta bị động trông chờ
Đồng minh, không nổi dậy tự giành chính quyền thì kịch bản có thể là bọn tay
sai Nhật tuyên bố thoát ly ảnh hưởng Nhật và tự xưng độc lập để đầu hàng Đồng
minh hơn là giải phóng dân tộc hoặc Pháp sẽ ngóc dậy, cùng bọn Việt gian thân
Pháp lập chính quyền bù nhìn và tuyên bố thi hành bản tuyên ngôn ngày 24 - 3 - 1945,
cho Đông Dương tự trị.
Sau
khi phát xít Nhật đảo chính hất cẳng thực dân Pháp độc chiếm Đông Dương, trong
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12 - 3 - 1945,
Trung ương Đảng đã nhận định sáng suốt rằng, bây giờ tình hình đã có nhiều
thuận lợi mới, nhưng “điều kiện khởi nghĩa... hiện nay chưa thực chín muồi”.
Đồng thời, Trung ương Đảng cũng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện
tổng khởi nghĩa, như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám
chắc, tiến sâu trên lãnh thổ Việt Nam và quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản
quân Đồng minh, để phía sau lưng sơ hở thì đó là lúc phát động khởi nghĩa vô
cùng thuận lợi. Hoặc cũng có thể là lúc “nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền
cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm
1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đông
minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”[1, tr.373].
Hội
nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào quyết định phát động toàn dân nổi dậy
tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh
vào Đông Dương. Kiên quyết chớp thời cơ, Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế vô cùng
khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc: a) Tập trung - tập
trung lực lượng vào những việc chính. b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương
diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy. c) Kịp thời - kịp thời hành
động, không bỏ lỡ cơ hội”[1, tr.425].
Ngày 16 - 8 - 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minhkêu gọi: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ”[2, tr.596].
Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội
(Ảnh: dangcongsan.vn)
Như
vậy, nhận diện rõ các tình huống có thể xảy ra, chớp thời cơ, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân kháng Nhật cứu nước, tích cực tạo ra những điều kiện thắng lợi cho
cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đến khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, ta lập tức
hạ lệnh Tổng khởi nghĩa, dùng lực lượng cách mạng của quần chúng giành chính
quyền từ tay Nhật, tổ chức chính quyền mới.
4. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi một phần bởi toàn dân đoàn kết, toàn dân nổi dậy. Cách
mạng Tháng Tám đã lôi cuốn được đại đa số quần chúng nổi dậy, làm tê liệt, cô
lập bọn phản động. Nếu cuộc khởi nghĩa không lôi cuốn được toàn dân thì một là
thực dân Pháp có chỗ lách mình vươn lên qua lợi dụng số quần chúng không tán
thành cách mạng mà lôi kéo, gây ảnh hưởng, rồi chúng dựa vào đó mà tuyên bố nhân
dân Việt Nam hoan nghênh chúng quay trở lại, đồng thời chúng sẽ gán cho quân
cách mạng cái mác “phiến loạn”... Mặt khác, bọn phản động có thể lợi dụng để
đào thêm ngăn cách giữa các tầng lớp nhân dân ta. Hoặc chúng có thể gây ra nội
chiến, đẩy dân tộc ta vào tình thế chia rẽ, hỗn độn, làm cho dân ta yếu đi để
dễ bề gây ảnh hưởng rồi cai trị trở lại. Thực tiễn lịch sử cho thấy, toàn dân
tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đoàn kết, đồng loạt làm nên cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám thành công.
Đó là,
khối đại đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức; trên
cơ sở lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân để tổ chức, tập hợp họ vùng
lên đấu tranh “lấy sức ta giải phóng cho ta”. Vì thế, Cách mạng Tháng Tám đã
tạo nên một cao trào cách mạng rộng khắp, mạnh mẽ chưa từng thấy với đông đảo
lực lượng tham gia, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, mọi
thành phần kinh tế, mọi giới và mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam.
Sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong tổng khởi nghĩa và Cách mạng Tháng Tám là
sức mạnh của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường
lối cách mạng đúng đắn. Đường lối đó luôn thể hiện tư tưởng xuyên suốt của
Đảng: cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Như vậy,
quan điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, một mặt khẳng định sức mạnh nội
lực, mặt khác kế thừa, phát triển tư tưởng “lấy dân là gốc” của dân tộc ta. Mục
tiêu của Cách mạng Tháng Tám là đem lại lợi ích tối cao cho dân tộc, vì lợi ích
của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người; đó là: đánh đổ thực
dân phong kiến, giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, đem lại
độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân,... Vì thế, trước lời hiệu triệu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh, toàn dân đã nhất tề đứng lên giành
chính quyền.
Huy
động được sức mạnh toàn dân là nhờ vào chủ trương, đường lối đúng đắn giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tổ chức lực lượng hùng hậu của Đảng thông qua
mặt trận Việt Minh. Việt Minh đã tạo dựng uy tín vững chắc trong nhân dân,
thống nhất được các tầng lớp nhân dân nổi dậy. Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám
đã đạt được mục đích giành chính quyền, mục đích trực tiếp của mọi cuộc cách
mạng vì đó là sự nghiệp của toàn dân đoàn kết dưới sự lãnh đạo và tổ chức của
Đảng.
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với cuộc cách mạng này, Đảng đã giải quyết được hai nhiệm vụ quan trọng nhất là
độc lập dân tộc (đánh đuổi thực dân Pháp) và tự do cho nhân dân (lật đổ chế độ phong
kiến tay sai) - đây là mục tiêu, là giá trị cốt lõi của lý tưởng chính trị “Độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn ngay từ khi
thành lập Đảng, là nền tảng quan trọng đưa Đảng trở thành lực lượng cầm quyền
một cách chính đáng.
Tuy
nhiên, gần đây cũng có một số ý kiến, quan điểm cho rằng thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám 1945 do Đảng, Mặt trận Việt Minh lãnh đạo là một sự ăn may. Ý
kiến trên không phản ánh đúng thực tế lịch sử cũng như sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam. Đúng là để có một thắng lợi trọn vẹn cần hội đủ các
yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc đấu tranh
giành độc lập của nhân dân Việt Nam suốt 15 năm kể từ khi có Đảng lãnh đạo (1930) thì đến Tổng khởi nghĩa
tháng 8 - 1945, thì Tổng khởi nghĩa đã có 15 năm chuẩn bị, tôi luyện trong đó
đặc biệt là từ sau Hội nghị Trung ương 8 (5 - 1941) với không ít mất mát đau
thương và những bài học kinh nghiệm được rút ra, chứ không phải chỉ có khoảng
nửa tháng như diễn biến chính của
Tổng khởi nghĩa. Bên cạnh đó, một thực tế hiển nhiên là ở thời điểm chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc, các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc
trên thế giới, cụ thể là ở Châu Á - Thái Bình Dương, khu vực Đông Nam Á đều có
chung điều kiện khách quan thuận lợi, thời cơ rõ rệt là chủ nghĩa phát xít bị
đánh bại để khởi nghĩa giành chính quyền, chứ không phải chỉ Việt Nam, Mặt trận
Việt Minh mới có cơ hội ấy. Đồng thời tại Việt Nam khi đó cũng có rất nhiều các
lực lượng, đảng phái khác nhau. Song hiếm có quốc gia nào lại chớp được thời cơ
như Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam. Thế nên, thắng
lợi của Tổng khởi nghĩa không thể cho rằng đó là kết quả
của một sự ăn may hay từ một khoảng trống quyền lực nào đó tạo ra. Đó là kết
quả của sự chuẩn bị kỳ công, trong một thời gian khá dài, với nhiều tổn thất,
hy sinh, các điều kiện cần và đủ để bảo đảm thắng lợi khi tiến hành tổng khởi
nghĩa. Sự chuẩn bị nội lực - điều kiện chủ quan - có ý nghĩa quyết định thắng
lợi và đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo dựng, đón bắt và tận dụng
thời cơ khi thời cơ đến. Và đó chính là tất yếu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Kết luận
Với
đường lối cách mạng đúng đắn, chuẩn bị khởi nghĩa chu đáo, chiến thuật mềm dẻo,
khôn khéo, phù hợp; nghệ thuật chớp thời cơ và phát huy sức mạnh quần chúng
hiệu quả, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành
công, thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Qua cuộc đấu tranh giành
độc lập đầy cam go mà hào hùng này, nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra,
trong đó đặc biệt phải kể đến sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, từ đó tạo niềm tin
của nhân dân; bài học về nắm thời cơ giành chính quyền, sự đoàn kết, đồng thuận
của toàn dân; tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế... Những
thành quả vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 tiếp tục được Đảng
và nhân dân củng cố, phát huy qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 21 năm
kháng chiến chống đế quốc Mỹ đi đến hòa bình, thống nhất và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng và phát huy cao độ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính
trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
[2] Hồ Chí
Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[3] Trịnh
Nhu, Trần Trọng Thơ (2020), Cách mạng tháng Tám 1945 - thắng lợi vĩ đại đầu tiên
của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
[4] Mạch Quang
Thắng (2020), Bài học của Cách mạng Tháng Tám đối với sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, https://tuyengiao.vn