(Ảnh: https://baochinhphu.vn)
Đặt vấn đề
Phát
triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh (TCSXKD) trong nông nghiệp là
phát triển các hình thức TCSXKD phù hợp với quy mô và trình độ TCSXKD nông nghiệp
nhằm không chỉ tạo ra sản lượng cao, mà còn đem lại giá trị kinh tế cao cho
nông sản. Hiện nay ở khu vực nông thôn nước ta đang có rất nhiều hình thức
TCSXKD trong nông nghiệp. Tuy nhiên, bài viết tiếp cận theo loại hình tổ chức sản
xuất kinh doanh trong nông nghiệp và chỉ nghiên cứu những loại hình TCSXKD
trong nông nghiệp phù hợp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa cao
đó là: Kinh tế trang trại, hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp.
Tiếp cận theo loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp giúp
nghiên cứu phát hiện những khó khăn, thuận lợi trong thực hiện phát triển các
loại hình TCSXKD trong nông nghiệp từ đó đề xuất giải pháp cho phù hợp.
1. Một số lý luận về
tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp
1.1.
Một số khái niệm
Khái
niệm tổ chức sản xuất: Tổ chức sản xuất kinh doanh (TCSXKD) là sự phối hợp, kết
hợp chặt chẽ giữa sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động cho phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất, qui mô sản xuất và công nghệ sản xuất đã
xác định.
Khái
niệm TCSXKD trong nông nghiệp: Là việc phối hợp các nguồn lực, điều kiện của sản
xuất kinh doanh trong nông nghiệp thông qua việc thiết lập các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của sản xuất
kinh doanh trong nông nghiệp.
Khái
niệm phát triển các hình thức TCSXKD trong nông nghiệp: Là phát triển các hình
thức TCSXKD phù hợp với quy mô và trình độ TCSXKD trong nông nghiệp nhằm không
chỉ tạo ra sản lượng cao, mà còn đem lại giá trị kinh tế cao cho nông sản hàng
hóa.
1.2.
Các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh trong nông nghiệp
Thúc
đẩy nền nông nghiệp hàng hóa phát triển cao, cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng,
áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất... Bên cạnh đó một vấn đề cũng rất quan
trọng là phát triển các hình thức tổ chức sản xuất. Trong đó, tiếp cận theo loại
hình TCSXKD thì hiện nay ở khu vực nông thôn nước ta, các hình thức TCSXKD
trong nông nghiệp bao gồm đa dạng các loại hình TCSXKD. Nhưng muốn áp dụng khoa
học công nghệ, tăng năng suất lao động cần phải nghiên cứu phát triển các loại
hình TCSXKD có vai trò quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp hàng hóa đó là:
Kinh tế trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp.
Kinh tế trang trại: Lần đầu tiên trong văn
bản pháp lý của nhà nước ta, Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 02/02/2000 đã
nêu rõ: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức SXHH trong nông nghiệp, nông
thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản
xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn
sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản".
Kinh tế trang trại là
một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp với mục đích là sản xuất
hàng hóa trên cơ sở tự chủ về ruộng đất, tư liệu sản xuất của hộ gia đình, tự
hạch toán và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Kinh tế trang trại là
hình thức tổ chức sản xuất tiến bộ, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm và hình
thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, do đó đây là hình thức tổ chức phổ
biến trong nông nghiệp và không chỉ được phát triển ở các nước công nghiệp mà
còn được phát triển ở tất cả các nước trên thế giới.
Hợp tác xã: Theo Điều 3 Luật Hợp
tác xã được thông qua năm 2012: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở
hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp
tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm
đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.
Như vậy, hợp tác xã là
tổ chức kinh tế do những người lao động có lợi ích kinh tế chung tự nguyện cùng
góp vốn góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy
sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Doanh nghiệp nông nghiệp:
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm:
chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, cung ứng vật tư, tư vấn khoa học kỹ thuật, tổ
chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm... Do chịu ảnh hưởng của đặc điểm sản xuất
kinh doanh ngành nông nghiệp, chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, đối
tượng sản xuất nên thời gian quay vòng vốn chậm, chịu nhiều rủi ro, vốn đầu tư
cơ bản lớn. Do đó các doanh nông nghiệp chưa thực sự thu hút được các nhà đầu
tư.
1.3. Vai trò các hình
thức tổ chức sản xuất kinh
doanh trong nông nghiệp
- Vai trò của kinh tế
trang trại
+ Kinh tế trang trại đã
góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thúc đẩy phát triển công
nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn.
+ Kinh tế trang trại mang
nhiều yếu tố sản xuất hàng hoá, sẽ gánh vác vai trò lịch sử của nó là thực hiện
sự phân công sâu sắc hơn và hợp tác rộng hơn cùng các thành phần, các lĩnh vực
kinh tế khác trong phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến nông sản
thực phẩm, mở mang ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn theo cơ cấu hợp lý, góp phần
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn các
tỉnh miền núi phía bắc.
- Vai trò của hợp tác
xã
+ Hợp tác xã góp phần
thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, giúp nhau tăng sức cạnh tranh, khai thác các
nguồn tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật để phát triển, góp phần thúc đẩy quá
trình xã hội hoá sản xuất, thực hiện tốt vai trò là cầu nối giữa các hộ sản
xuất, xã viên với nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước.
+ Hợp tác xã góp phần
đưa tiến bộ khoa học, công nghệ, thiết bị kỹ thuật hiện đại tới người nông dân
trong các khâu sản xuất nông nghiệp và nông thôn; phát triển và mở rộng các
hoạt động dịch vụ và hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công
và khuyến thương; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và thực hành nông nghiệp cho lao
động nông nghiệp, nông thôn; tổ chức thực hiện việc phổ cập thông tin khoa học
- kỹ thuật và thông tin thị trường đến các xã, thôn.
+ Hợp tác xã góp phần
đưa tiến bộ khoa học, công nghệ, thiết bị kỹ thuật hiện đại tới người nông dân
trong các khâu sản xuất nông nghiệp và nông thôn; phát triển và mở rộng các
hoạt động dịch vụ và hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công
và khuyến thương; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và thực hành nông nghiệp cho lao
động nông nghiệp, nông thôn; tổ chức thực hiện việc phổ cập thông tin khoa học
- kỹ thuật và thông tin thị trường đến các xã, thôn.
+ Hợp tác xã phát triển
sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu
nhập và bảo đảm đời sống ổn định cho xã viên và người lao động, giải quyết
nhiều vấn đề kinh tế - xã hội ở địa phương, là tiền đề quan trọng để thực hiện
dân chủ hoá và nâng cao văn minh ở nông thôn; các hợp tác xã phát huy tinh thần
tương thân, tương ái, đoàn kết hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau để vượt nghèo, góp phần
làm giảm bớt những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường và ổn định xã hội ở nông
thôn.
+ Hợp tác xã góp phần
quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn: hệ thống điện,
thuỷ lợi, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi xã hội, như nhà mẫu
giáo, nhà trẻ, nhà văn hoá, trường học để phục vụ cho xã viên và cộng đồng dân
cư.
- Vai trò của doanh
nghiệp nông nghiệp
+ Với
vai trò có thể kết nối được đến hàng chục triệu hộ nông dân tại nhiều vùng miền
trên cả nước, nếu được tận dụng, phát huy, sức mạnh của mỗi doanh nghiệp nông
nghiệp sẽ rất lớn và thực sự mang lại đa giá trị, vừa đem lại thu nhập cao cho
người dân vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng xanh trong
ngành nông nghiệp.
Trong quá trình từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất
nông nghiệp, quy mô, mô hình, phương thức sản xuất nông nghiệp đã có sự thay
đổi đáng kể. Ngoài quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ và hợp tác xã nông nghiệp, nhiều
hợp tác xã kiểu mới đã hình thành và phát triển hiệu quả. Đặc biệt, nhiều hộ
dân đã thành lập doanh nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ, đầu tư mở rộng sản
xuất, nâng cao đáng kể năng suất, giải quyết công ăn việc làm tại chỗ.
Cùng với đó, thực hiện chủ trương của Đảng và các chính sách của
Chính phủ, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp. Cho đến nay, có thể nói doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, đặc biệt
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
+ Doanh nghiệp thu hút đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tạo
việc làm, từ đó nâng cao chất lượng đời sống người lao động (phần lớn là nông
dân hoặc xuất thân từ nông dân); thay đổi tập quán canh tác, nâng cao trình độ
của người nông dân.
+ Các doanh nghiệp cũng đã tiên phong trong ứng dụng khoa học kỹ
thuật, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; chủ động tìm kiếm, phát triển
thị trường, nâng cao giá trị cho nông sản.
2. Thực trạng phát triển
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp nước ta hiện nay
2.1 Một số thành tựu về
phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh trong nông nghiệp ở nước ta
Kinh tế trang trại
Đến năm 2021 số lượng
trang trại tăng qua các năm. Trang trại tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng
và Đồng Bằng sông Cửu Long, tương ứng chiếm tỷ lệ khoảng 26,52% và 23,37%. Về
cơ cấu, trên cả nước trang trại trồng trọt chiếm 27,6%, trang trại chăn nuôi
chiếm 57,83%, trang trại nuôi trồng thủy sản chiếm 11,8%. Sự chuyển hướng phát
triển các trang trại chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, giảm số lượng các trang trại
trồng trọt là phù hợp với phát triển nền nông nghiệp hàng hóa theo hướng phát
triển những ngành có giá trị gia tăng cao, hiệu quả đầu tư cao hơn[4, tr.487].
Hợp tác xã
Theo số liệu thống kê
vào 31/12/2019, số lượng HTX ở khu vực nông, lâm, thủy sản tăng qua các năm.
HTX đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh ở khu vực nông, lâm, thủy sản
chiếm tỷ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác, tương ứng là 7.418 HTX, chiếm
51,5% số lượng của toàn bộ khu vực HTX, tăng 5,5% so với năm 2018[5, tr.19].
Về quy mô thu hút lao
động: Tại thời điểm 31/12/2019 các HTX hoạt động trong khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản thu hút nhiều lao động nhất so với các lĩnh vực khác với 77.697
người, chiếm 43,2% lao động của toàn bộ khu vực HTX [5, tr.22].
Năm 2019, HTX khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản thu hút 26.372 tỷ đồng, chiếm 11,7% so với tổng số
nguồn vốn thu hút sử dụng trong toàn bộ các HTX. Doanh thu thuần của các HTX
đang hoạt động có kết quả SXKD của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt
17.186 tỷ đồng, chiếm 17,2% so với toàn bộ doanh thu thuần của khu vực HTX[5, tr.21].
Doanh nghiệp nông nghiệp
Số lượng doanh nghiệp
nông nghiệp tăng qua các năm. Năm 2021, trong số các doanh nghiệp đang hoạt
động, khu vực nông, lâm, thủy sản có số lượng ít nhất với 12.011 doanh nghiệp,
chiếm 1,4% trên cả nước. Trong số các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả
SXKD, khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm 0,79% so với tổng số các doanh nghiệp
đang hoạt động trên cả nước. Sự xuất hiện của loại tổ chức doanh nghiệp rất
quan trọng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Lao động trong các doanh
nghiệp nông nghiệp cùng năm chiếm 1,8% lao động của toàn bộ khối doanh nghiệp.
Hiệu suất sử dụng lao động trong các doanh nghiệp nông nghiệp cũng ở mức thấp
nhất. Thu nhập bình quân tháng cho một lao động cũng ở mức thấp nhất so với các
khu vực kinh tế khác với 6,2 triệu đồng.
Năm 2020, nguồn vốn thu
hút sử dụng trong các doanh nghiệp khu vực nông, lâm, thủy sản là 332,2 nghìn
tỷ đồng, chỉ chiếm 1% tổng nguồn vốn sử dụng cho SXKD của toàn bộ các doanh
nghiệp đang hoạt động có kết quả SXKD. Doanh thu thuần chỉ đạt 158.068 tỷ đồng,
chỉ chiếm 0,57% doanh thu thuần của toàn bộ khu vực doanh nghiệp[6, tr.25].
2.2 Những hạn chế, bất
cập
- Đối với kinh tế trang
trại
Hầu hết
vốn đầu tư là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng. Vốn vay của các tổ chức tín
dụng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ.
Đa số các trang trại
chưa xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, mã số, mã vạch sản phẩm hàng hóa.
Việc lựa chọn cây trồng, vật nuôi của một số trang trại thiếu hợp lý, chưa phù
hợp với kinh tế thị trường, mất cân đối cung cầu, giá trị đạt thấp.
Các
trang trại hiện nay phát triển còn mang tính tự phát, không có quy hoạch bài
bản, quy mô sản xuất (đất đai, lao động và doanh thu) của trang trại nhìn chung
còn nhỏ, sản phẩm không đa dạng, hiệu quả kinh tế chưa cao; hệ thống cơ chế,
chính sách phát triển kinh tế trang trại còn tản mạn, chưa cụ thể, tính khả thi
khi áp dụng trong thực tế thấp[1].
- Những hạn chế đối với
phát triển hợp tác xã
HTXNN
hiện nay chủ yếu phát triển theo chiều rộng, không đồng đều giữa các địa
phương, vùng, miền trong cả nước; đa số HTXNN có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất,
trình độ khoa học - công nghệ, tiềm lực tài chính, năng lực của đội ngũ cán bộ
còn yếu, phạm vi hoạt động hạn chế; hiệu quả thấp, kém bền vững, năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh chưa cao...[2].
- Những
hạn chế đối với phát triển doanh nghiệp nông nghiệp
Mức hỗ
trợ cho doanh nghiệp nông nghiệp còn thấp, chưa đủ sức hấp dẫn đầu tư cũng như
chưa bảo vệ được doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam trước sức cạnh tranh của
doanh nghiệp nước ngoài.
Doanh
nghiệp không có diện tích đất đủ lớn để đầu tư sản xuất - kinh doanh. Việc tạo quỹ đất để hình
thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn rất khó khăn bởi giá đền bù cao.
Việc hình thành các
chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm mới phát triển; liên kết theo
chuỗi nhằm tìm kiếm “đầu ra” ổn định cho sản phẩm còn rất hạn chế; Liên kết
“bốn nhà” còn mang tính hình thức[3].
3. Một số giải pháp phát
triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp thời gian tới
3.1. Giải pháp phát
triển kinh tế trang trại
- Về đất đai: Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất và cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các Chủ trang trại có địa điểm đất làm trang
trại phù hợp với quy hoạch, không có tranh chấp và sử dụng đất có hiệu quả để
Chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Cần có sự điều chỉnh việc sử
dụng đất đai trong các trang trại theo hướng tăng quy mô bằng cách khuyến khích
tích tụ tập trung ruộng đất và liên kết trong sản xuất…
- Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Thực hiện phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” nhằm huy động tổng hợp các nguồn lực để xây dựng và
phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, tạo tiền đề phát triển nền sản xuất nông
nghiệp hàng hoá quy mô lớn theo hướng kinh tế trang trại. Tạo điều kiện cho các
Chủ trang trại tiếp cận được nguồn vốn tín dụng để vay vốn mở rộng quy mô tổ
chức sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng thương hiệu nông sản chủ lực: Hiện nay 90% nông
sản vẫn xuất khẩu dưới dạng thô, kim ngạch còn thấp do giá xuất khẩu thấp hơn
các sản phẩm cùng loại của nhiều nước. Chúng ta vẫn còn khoảng 80% lượng nông
sản chưa xây dựng được thương hiệu. Đây là một bất lợi lớn, khiến sức cạnh
tranh của các loại nông sản Việt Nam trên thị trường còn yếu và chịu nhiều thua
thiệt. Các trang trại, doanh nghiệp cần sớm triển khai xây dựng thương hiệu cho
các mặt hàng nông sản của mình khi đáp ứng được các yếu tố chính như: được sản
xuất trên quy mô lớn với mức độ cơ giới hóa cao, có khối lượng và giá trị tiêu
thụ lớn, chất lượng đồng đều, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giá bán cạnh
tranh, có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn trong và ngoài nước.
- Tổ chức sản xuất: Tổ chức liên kết, hợp tác sản xuất theo chuỗi
giá trị, câu lạc bộ trang trại để cùng nhau chia sẻ, học tập, trao đổi, giúp đỡ
lẫn nhau về khoa học, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, thị trường giá
cả có hiệu quả.
3.2. Giải pháp phát triển hợp tác xã nông nghiệp
- Đẩy mạnh tuyên truyền về bản chất, cơ chế hoạt
động, vai trò của hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển HTXNN, mô hình HTXNN kiểu mới, kinh nghiệm hay
về phát triển HTXNN trên thế giới.
- Đẩy mạnh phát triển thị trường quyền sử dụng đất
nông nghiệp; hoàn thiện cơ chế xác nhận, chứng nhận và góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp
thông qua các HTXNN; rà soát quỹ đất công hiện có, tạo quỹ đất cần thiết cho
các HTXNN thuê xây dựng trụ sở, cơ sở sản xuất,... phục vụ yêu cầu phát triển
ổn định, lâu dài.
- Xây dựng hệ thống chính sách tín dụng đặc thù
cho HTXNN; tạo thuận lợi cho thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản hình
thành trên đất hoặc từ vốn vay; khuyến khích tích lũy, sử dụng có hiệu quả vốn,
tài sản thuộc sở hữu tập thể trong HTXNN.
-Tăng cường đội ngũ cán bộ các cấp về quản lý và
phát triển HTXNN; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và người lao động cho
HTXNN; tăng cường bồi dưỡng năng lực quản lý, điều hành cho
các chức danh chủ chốt của HTXNN.
- Tăng cường hỗ trợ HTXNN đầu tư phát triển chuỗi
giá trị nông sản; khuyến khích tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, áp dụng
hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm; bảo đảm chất lượng và tính an toàn của
nông sản hàng hóa; tạo lập và kết nối thị trường đầu vào và đầu ra hỗ trợ phát
triển HTXNN; tập trung hỗ trợ dịch vụ tư vấn sản xuất, thông tin thị trường,
tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, kết nối thương mại điện tử,...
3.3. Giải pháp phát triển doanh nghiệp nông nghiệp
- Để có thể phát triển mạnh số lượng doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước bằng một hệ
thống chính sách rõ ràng, minh bạch và nhất quán: Ưu đãi về thuế; ưu đãi
về vay ngân hàng với lãi suất thấp theo chu kỳ sản xuất.
- Tạo thuận lợi trong việc tiếp cận đất đai; thúc
đẩy mạnh mẽ thị trường quyền sử dụng đất; tháo gỡ vướng mắc hạn điền nhằm giúp
các doanh nghiệp nông nghiệp mở rộng sản xuất.
- Chuyển đổi mô hình TCSXKD trong nông nghiệp.
Thúc đẩy các loại hình liên kết sản xuất, sản xuất theo chuỗi; Phát triển thị
trường bảo hiểm nông nghiệp.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền,
phổ biến chính sách đến các doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản; Tăng cường vai
trò của các hiệp hội doanh nghiệp ở các ngành hàng nông nghiệp.
Kết luận
Nghiên cứu phát triển các hình thức
TCSXKD trong nông nghiệp là rất cần thiết. Từ những kết quả đạt được và hạn
chế, bất cập của từng loại hình TCSXKD nông nghiệp hiện nay, từ đó, bài viết đề
xuất một số gợi ý giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của các hình thức
TCSXKD trong nông nghiệp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa, khi Việt
Nam ngày càng có nhiều hàng hóa nông sản xuất khẩu sẽ tiếp tục phát triển đa
dạng các hình thức liên kết, các hình thức tập trung sản xuất theo mô hình cánh
đồng mẫu lớn.
Tài liệu tham khảo:
[1] Minh Hiển (2022),
Tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển thuận lợi, https://baochinhphu.vn
[2] Nguyễn Mạnh Hùng, Đoàn
Xuân Thủy
(2022), Định hướng phát triển hợp tác xã nông nghiệp
ở Việt Nam trong bối cảnh mới, https://www.tapchicongsan.org.vn
[3] Nguyễn Thị Dương Nga (2021),
Thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp nông nghiệp ở Việt Nam, http://iasvn.org
[4] Tổng cục thống kê (2021),
Niên giám thống kê 2021, Nxb. Thống kê.
[5] Tổng cục thống kê (2021),
Sách trắng hợp tác xã Việt Nam 2021, Nxb. Thống kê.
[6] Tổng cục thống kê (2021), Sách
trắng doanh nghiệp Việt Nam 2021, Nxb. Thống kê.