Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ: “Thực hiện đúng đắn,
hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực
hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”[5, tr 173]. Quan điểm này của Đảng chính là sự định
hướng quan trọng cho bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội nói riêng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt
Nam trong điều kiện hiện nay. Tham gia quản lý nhà nước và xã hội là quyền thể
hiện bản chất của Nhà nước, đồng thời thể hiện tập trung mối quan hệ giữa Nhà
nước và Nhân dân.
1.Quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội của công dân
Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, luôn xác định và thực hiện nhiệm vụ phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến... Quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội của công dân là quyền dân sự, chính trị quan trọng thể hiện
tập trung, đầy đủ bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Việc
bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân trong thực tiễn
chính là thước đo của nền dân chủ, văn minh, của tự do và tiến bộ xã hội, cũng
chính qua đó thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của Nhà nước Việt Nam.
Quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp
năm 2013 và trong nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà nước. Điều 28 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của công dân”[6, tr.717]. Công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp như: Bầu cử, ứng cử, tham gia xây dựng chính
sách, pháp luật, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, khiếu nại, tố
cáo, đóng góp ý kiến, kiến nghị...
Trong
một xã hội dân chủ và tiến bộ, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội của công dân được thực thi trong thực tế chứ không
chỉ là một quyền hình thức. Nhà nước tôn trọng, ghi nhận, bảo đảm những điều kiện
cần thiết cũng như vận hành cơ chế để công dân tiếp cận và hưởng thụ quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội trên thực tế. Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội của công dân dựa trên cơ sở chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam; hoạt động của các thiết chế nhà nước, thiết chế xã hội
và truyền thông báo chí ở Việt Nam. Nhà nước thực hiện vai trò và trách nhiệm của
mình trong bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân chính là tăng
cường hiệu quả hoạt động của các thiết chế trong cơ chế bảo đảm quyền con người,
trước hết và chủ yếu là các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
2.Thực trạng bảo đảm
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân ở Việt Nam thời gian qua

Nhận thức của Đảng, Nhà nước về bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền
công dân ở Việt Nam hiện nay
(Nguồn ảnh: Tạp chí Tổ chức Nhà nước, https://tcnn.vn/
Kết
quả đạt được
Thứ
nhất, về chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng
đã ban hành nhiều nghị quyết nhằm củng cố cơ sở chính trị cho bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam như Chỉ thị số 12- CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam “về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ
trương của Đảng ta”. Đây là văn kiện chuyên đề đầu tiên của Đảng về chủ đề quyền
con người, Chỉ thị đã nêu ra những nhận thức cơ bản của Đảng về vấn đề quyền
con người góp phần định hướng cho công tác bảo đảm và đấu tranh trên lĩnh vực
nhân quyền trong tình hình mới.
Chỉ
thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương về “Công tác nhân quyền
trong tình hình mới”; Đảng đã xác định :“Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân
không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ
cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân”[1, tr.9-18]. Những văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng, đặc biệt, Đại
hội đại biểu lần thứ XIII, Đảng đều nhấn mạnh nhiệm vụ bảo đảm quyền con người
nói chung, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội nói riêng: “Thực hành và
phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của
nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”[4,
tr.38].
Thứ
hai, về khung pháp lý
Cùng
với Hiến pháp 2013, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhiều
văn bản luật cụ thể hóa quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân
như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; Luật Tổ
chức chính quyền địa phương; Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Công
đoàn; Luật Khiếu nại; Luật tố cáo; Luật Trưng cầu ý dân; Luật Tiếp cận thông
tin; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007... Ngoài ra,
nhiều văn bản dưới luật khác cụ thể hóa các văn bản luật cũng được các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành bảo đảm cơ sở pháp lý quan trọng cho quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân.
Thứ
ba, về thực thi quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Nhà
nước bảo đảm cho công dân trực tiếp tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc ứng
cử vào Hội đồng nhân dân các cấp. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, cử tri các nước đã
tham gia rất tích cực và có trách nhiệm cao. Đây là cuộc bầu cử có quy mô lớn
nhất từ trước đến nay, thể hiện ở số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu với gần 70
triệu lá phiếu tại 84.767 khu vực bỏ phiếu. Cử tri đã lựa chọn trong số gần 45
vạn người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp để bầu
những người thực sự tiêu biểu, xứng đáng về phẩm chất đạo đức và năng lực, trí
tuệ đại diện cho mình tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương
và địa phương[5]. Đây là phương thức thể hiện rõ nhất quyền trực tiếp tham gia
quản lý nhà nước và xã hội của công dân.
Cùng
với đó, công dân đã tham gia thảo luận, góp ý kiến với hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, phát biểu ý kiến về các vấn đề quản lý nhà nước, về nội dung của
các quyết định quản lý, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với những
vấn đề xã hội phát sinh; tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động của
bộ máy nhà nước, đấu tranh với các tệ nạn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, lãng
phí hay tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà
nước: “Tại 99 điểm cầu có 2065 lượt cử tri tham dự với 177 lượt ý kiến”[10].
“Việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng khu phố, ấp, thành viên Ban Thanh tra
nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng đã được tổ chức theo định kỳ, đạt kết
quả theo tinh thần Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN của Chính
phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”[2]. Công dân đã tham gia
đóng góp ý kiến vào xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: “việc lấy ý kiến nhân
dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã được triển khai sâu rộng, thật sự tạo
ra đợt sinh hoạt chính trị pháp lý quan trọng trong các tầng lớp nhân dân...
các bộ, ngành, địa phương, hội, đoàn thể trong cả nước đã tiếp nhận khoảng 20
triệu lượt ý kiến góp ý về các nội dung của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”[9],
“trên 6 triệu lượt ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)”[8]. Công
dân đã tham gia bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề liên quan đến đời sống
ở cơ sở như sinh sống, làm việc tại các địa phương, cơ quan: Phong trào xây dựng
“Gia đình văn hóa”; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”... Với hình thức gián tiếp,
công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp.
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Chú trọng thực hiện
dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng
cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân”[4, tr.71]. Cùng với thiết chế nhà nước,
các thiết chế xã hội và truyền thông báo chí ở Việt Nam cũng thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, góp phần bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội của công dân.
Một
số hạn chế
Pháp
luật và cơ chế bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân
thời gian vừa qua còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Một số quy định pháp luật
chưa tạo cơ sở cho thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công
dân, chưa bảo đảm cơ chế cho thực hiện quyền, chính vì vậy, trong một số trường
hợp quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội mang tính hình thức: ví dụ Điều
32 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 xác định cơ quan có quyền
trình dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật lập đề nghị xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật. Quy định này đã loại bỏ quyền lập đề nghị xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật của những công dân là thành viên của tổ chức xã hội không
thuộc thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngay cả khi họ là đối tượng chịu
tác động trực tiếp của văn bản. Các quy định về cơ chế, thủ tục và điều kiện bảo
đảm thực hiện quyền còn bộc lộ những bất cập trong tổ chức thực hiện.
Trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo đảm thực thi quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội của công dân còn bộc lộ những hạn chế, đặc biệt, “một
bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự
tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người dân”[4, tr.89], chính vì vậy hoạt động kiểm
soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân thời gian qua chưa thực sự hiệu quả. Nội
dung tham gia của nhân dân vào các hoạt động của chính quyền cơ sở và của các cấp
chính quyền, đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành các quyết định
hành chính còn hạn chế, dẫn đến các vụ khiếu nại, khiếu kiện đối với các quyết
định hành chính của chính quyền cấp xã.
Về
phía người dân, vì nhiều lý do như trình độ nhận thức, điều kiện kinh tế... nên
chưa thực sự phát huy vai trò và quyền làm chủ của mình thông qua quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội một cách thực chất, ngay cả quyền bầu cử là quyền
thể hiện tập trung nhất quyền dân chủ trực tiếp thì một bộ phận người dân còn
thực hiện một cách hình thức.
Những
hạn chế trên do nhiều nguyên nhân như: Một số quy định của pháp luật chưa đáp ứng
yêu cầu cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu; một bộ phận cán bộ, công chức quản lý chưa
coi tham gia quản lý nhà nước và xã hội là một quyền quan trọng của công dân
nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền. Việc tổ chức các
hình thức, phương thức để huy động sự tham gia của người dân vào hoạt động của
các cơ quan nhà nước có nơi chưa thật sự khoa học; nhận thức về vai trò và hoạt
động của Mặt trận tổ quốc còn có những hạn chế nhất định... Thực trạng trên đòi
hỏi cần phải có những giải pháp để tăng cường bảo đảm hơn nữa quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội của công dân trong thời gian tới.
3.Một số giải pháp
tăng cường bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân ở Việt
Nam thời gian tới
Một
là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội của công dân
Đại
hội lần thứ XIII khẳng định cần, “Xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất,
đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm”[4, tr.285].
Khi xây dựng các quyết sách cần “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu
của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực
hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền
làm chủ của nhân dân”[3, tr.169]. Hệ thống các văn bản luật cần quy định rõ
ràng, đầy đủ và cụ thể cách thức thực thi quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, bảo đảm quyền này phải được thực hiện thực chất và có ý nghĩa. Hoàn thiện
cơ chế bầu cử để người dân thực sự chọn được những người có năng lực, trình độ,
phẩm chất đạo đức, tận tâm với hoạt động của nhà nước và xã hội, xứng đáng là đại
diện của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Luật Trưng cầu ý dân,
Luật Tiếp cận thông tin, Luật Tiếp công dân để các văn bản luật này thực sự đi
vào cuộc sống.
Hai
là, tăng cường phổ biến, tuyên truyền cho nhân dân về quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội của công dân
Để
có thể tham gia quản lý nhà nước và xã hội, để biết, bàn, làm và kiểm tra, giám
sát và thụ hưởng thì người dân phải có trình độ nhận thức, có ý thức và sự giác
ngộ chính trị, hiểu được nội dung, yêu cầu của những vấn đề đặt ra. Nâng cao
trình độ dân trí cũng như nhận thức của nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội nói riêng là việc làm quan trọng và cần thiết. Cần tuyên truyền sâu rộng
trong nhân dân về các thiết chế dân chủ, nội dung các quyền làm chủ cũng như cơ
chế, cách thức để người dân hiểu và thực hiện được quyền làm chủ của mình.
Ba
là, đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước
Toàn
bộ hệ thống chính trị, trong đó trước hết và chủ yếu là các cơ quan nhà nước cần
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong bảo đảm
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân. Đổi mới quy trình lập
pháp của Quốc hội, bảo đảm sự tham gia của công dân trong quá trình soạn thảo
và thông qua pháp luật; giám sát hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
đặc biệt là tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong giám sát hoạt động của cơ
quan tư pháp; tăng cường việc tiếp nhận, giải quyết kịp thời, nhanh chóng đơn
thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới Quốc hội. Đổi mới Chính phủ và bộ
máy hành pháp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm nền hành chính
công khai, minh bạch, trong sạch, vững mạnh. Sắp xếp lại các cơ quan của Chính
phủ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh
mẽ giữa các cơ quan hành chính nhà nước gắn với trách nhiệm và cơ chế kiểm tra,
giám sát, kiểm soát quyền lực. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, hệ thống các cơ quan
tư pháp hoạt động có hiệu quả, bảo đảm Toà án xét xử độc lập, khách quan và vô
tư, đúng pháp luật.
Bốn
là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức
Xây
dựng được đội ngũ cán bộ, công chức với cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, có năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt và đủ năng lực thi hành nhiệm vụ
công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. Coi
trọng công tác giáo dục đạo đức và phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, công
chức để nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, niềm tự hào dân tộc và tinh thần
trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân.
Năm
là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
và các tổ chức chính trị - xã hội
Nhà
nước cần tạo điều kiện để người dân thể hiện được quyền dân chủ trực tiếp của
mình, trong đó có yêu cầu lắng nghe tiếng nói của nhân dân. Hệ thống các cơ
quan thực hiện quyền kiểm tra, kiểm soát và cơ chế kiểm tra, giám sát cần được
tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, thực hiện chức năng, nhiệm vụ một
cách hiệu quả trên thực tế. Thông qua kiểm tra, giám sát mới nhanh chóng phát
hiện ra những vi phạm trong thực thi, từ đó có cơ chế kỷ luật, xử lý nghiêm
minh theo pháp luật.
Kết luận
Việt
Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu phát huy dân chủ và mở rộng
sự tham gia của công dân vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội ngày càng
quan trọng và cấp thiết. Bảo đảm các điều kiện cần thiết để công dân tham gia
quản lý công việc của Nhà nước và xã hội được coi là nhân tố quyết định thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Thực hiện đồng bộ một số giải pháp trên đây sẽ góp phần bảo đảm ngày càng
hiệu quả hơn quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam.
Tài liệu tham khảo:
[1]Ban
Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ - Văn phòng thường trực (2012), Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng
ta”, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
[2]Bộ
Nội vụ (2020), Báo cáo đánh giá tác động
của chính sách trong dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
[3]Đảng
Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[4]Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
[5]Bích
Lan-Bùi Hùng (2021), Công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công tốt
đẹp, https://quochoi.vn
[6]Liên
hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - Viện Chính sách công và pháp luật
(2014), Bình luận khoa học Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.
[7]Ngành Thanh tra thực hiện 83.983 cuộc thanh
tra và phát hiện vi phạm hơn 31 nghìn tỷ đồng, https://mof.gov.vn
[8]Trên 6 triệu lượt ý kiến góp ý đối với Dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi), https://dangcongsan.vn
[9]TTXVN
(2013), Đã có 20 triệu lượt ý kiến góp ý
Hiến pháp, https://tuoitre.vn
[10]Bảo
Yến - Nghĩa Đức (2022), Tiếp nhận và giải
quyết ý kiến, kiến nghị cử tri không vì giãn cách xã hội mà gián đoạn,
https://quochoi.vn