Ảnh Tư liệu
Đại
đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc
Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước, ý
thức cố kết dân tộc, cộng đồng được hình thành, tạo thành dòng chảy chủ đạo
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tinh thần ấy đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm
của mỗi người dân Việt Nam, trở thành chất keo gắn kết toàn thể nhân dân Việt
Nam, tạo nên động lực to lớn đưa đất nước vươn lên qua từng nấc thang lịch sử.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu
tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhận thức và thấu hiểu vai trò to lớn của đại đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp cách mạng. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng về đại
đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt, có giá trị lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những
bài học kinh nghiệm lớn, quý giá, là phương thức cũng như là điều kiện để bảo đảm
sự thành công trong tiến trình cách mạng. Từ thực tế cho thấy, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng đại đoàn kết dân tộc đã để lại nhiều kinh nghiệm quý,
có giá trị to lớn trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam nói
chung và xây dựng khối đoàn kết ở Học viện Chính trị khu vực I nói riêng.
1.Một số quan điểm của
Hồ Chí Minh về xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc
Một
là, nhân dân là lực lượng và là nền tảng để xây dựng đại đoàn kết dân tộc
Đại
đoàn kết dân tộc là tập hợp được mọi người dân vào cuộc đấu tranh chung. Do đó,
Hồ Chí Minh khẳng định lực lượng xây dựng đoàn kết dân tộc là toàn dân. Người
chỉ rõ: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng
được lực lượng đó”[5, tr.18-19], “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng
chính là ở dân”[6, tr.501]. Người khẳng định: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
với họ”[7, tr.244]. Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh
công - nông. Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc
là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống
nhất”[9, tr.417].
Hai
là, hình thức xây dựng khối đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
Hồ
Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân
tộc. Khát vọng độc lập, tự do, sống ấm no, hạnh phúc là mẫu số chung, là điểm gốc
quy tụ tất cả người dân Việt Nam vào đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, cần phải tập
hợp nhân dân trong một mặt trận thống nhất về tư tưởng và hành động. Trong khối
đại đoàn kết này, Đảng là thành viên của Mặt trận, đồng thời là lực lượng lãnh
đạo tổ chức.
Đoàn
kết toàn dân tộc là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt tộc người,
tôn giáo, đảng phái.., với phương châm “cầu đồng tồn dị”: “Chúng ta phải đoàn kết
chặt chẽ các tầng lớp nhân dân Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể,
các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ
lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng
Tổ quốc Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo,
cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”[10, tr.454].
Đoàn kết phải được xây dựng trên tinh thần vì mục tiêu chung, luôn tự phê bình
và phê bình, đấu tranh để giữ gìn khối đoàn kết nhất trí: “Đoàn kết thật sự
nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật
sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”[8,
tr.362].
Ba
là, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân cốt lõi của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc
Xây
dựng khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động trong nội bộ Đảng Cộng sản
Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản
nhất trong xây dựng Đảng. Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận
trong hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo, là hạt nhân của đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Trong
bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trước hết nói về Đảng - nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc,
cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[9,
tr.509]. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta.
Đoàn kết trong Đảng ở đây theo Người là: Xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng
và hành động, đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng và của
dân tộc Việt Nam; là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế - là một cội nguồn làm nên sức mạnh của Đảng. Vì thế, các đồng
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình; Đoàn kết phải được bảo vệ và không ngừng củng
cố, phát triển trong Đảng. Tám chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” được
xác định là nhiệm vụ căn cốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Bốn
là, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Tư
tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung phong phú được
thể hiện rõ ràng, nhất quán, qua nhận thức, quan điểm và hành động của Người. Hồ
Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Vì theo Người, thân phận bất hạnh, bị
bóc lột của người lao động nghèo trong nước và trên thế giới là cơ sở hình
thành “tình hữu ái”, sự đoàn kết trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng
định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt
Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế
giới. Những quan điểm trên đã trở thành một bộ phận quan trọng trong đường lối
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành phương châm hành động của toàn Đảng,
toàn dân và là cơ sở để Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách phát huy
vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.Học
viện Chính trị khu vực I với việc xây dựng khối đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Ảnh Tư liệu
Học
viện Chính trị khu vực I là đơn vị trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Học viện Chính trị khu vực I (gọi tắt là Học viện) là trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng,
Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị
sự nghiệp công lập ở khu vực phía Bắc theo sự phân công, phân cấp của Giám đốc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; góp phần nghiên cứu lý luận Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
nghiên cứu các khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý; khoa học giáo dục
và phương pháp dạy, học trong trường Đảng.
Trong
quá trình hình thành và phát triển, khối đoàn kết tại Học viện đã và đang được
tiếp tục được xây dựng, củng cố, là nhân tố góp phần to lớn vào thành tích
chung của Học viện. Thành công trong việc xây dựng khối đoàn kết tại Học viện
thể hiện trên các phương diện:
Một
là, xây dựng khối đoàn kết tại Học viện đã nhận được sự đồng thuận trên dưới một
lòng, cùng chung sức xây dựng, phát triển Học viện lớn mạnh từ người đứng đầu Học
viện đến các cán bộ, viên chức. Ban Giám đốc Học viện luôn gương mẫu đi đầu, bảo
đảm công bằng và bình đẳng cho cán bộ, viên chức Học viện trong việc thực hiện
nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trong quyền lợi chính trị, quyền lợi kinh tế;
chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các cán bộ, viên chức; kết
hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của toàn Học
viện.
Hai
là, xây dựng khối đoàn kết được thực hiện trên cơ sở tự phê bình, phê bình thẳng
thắn, có trách nhiệm cao, có tinh thần xây dựng, không né tránh khuyết điểm,
không đoàn kết một chiều, không đoàn kết hình thức. Từ tổ chức Đảng tới các tổ
chức đoàn thể Học viện đều tạo cơ chế, cơ hội để mọi người phát huy tinh thần đấu
tranh góp ý trực tiếp hoặc gián tiếp qua người đại diện với mục tiêu vì cái
chung, vì sự tiến bộ của cá nhân hay tập thể. Sự trao đổi thẳng thắn đó chính
là thể hiện tinh thần trách nhiệm, “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” như Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn, giúp nhau khắc phục khuyết điểm, tự vươn lên
hoàn thiện bản thân. Do đó, không có những hành vi lợi dụng danh nghĩa đấu
tranh phê bình để mưu cầu lợi ích riêng, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của
người khác, làm ảnh hưởng tới khối đoàn kết trong Học viện. Học viện đã xây dựng
một môi trường làm việc với tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, luôn tạo cơ hội
cho mọi người có điều kiện phát triển. Do đó, đã tạo nên tinh thần cộng đồng
chung tay xây dựng Học viện ngày càng phát triển.
Ba
là, tạo dựng niềm tin cho cán bộ, viên chức, học viên của Học viện được coi là
một trong những điều kiện làm cho khối đoàn kết trong Học viện được nâng cao.
Có được thành công này là nhờ các đồng chí trong Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện,
các đồng chí trưởng các đoàn thể chính trị xã hội, các đồng chí trưởng, phó các
đơn vị trong Trường đã luôn gương mẫu đi đầu trong mọi công tác. Luôn phát huy
dân chủ, công khai minh bạch đã giúp cho cán bộ, viên chức, học viên trong Học
viện đều thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc đóng góp cho Học viện
ở các phạm vi, mức độ, các lĩnh vực khác nhau.
Bốn
là, Học viện vừa tập trung làm tốt công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, giảng viên; vừa tạo môi trường cảnh
quan xanh, sạch, đẹp; vừa quan tâm xây dựng môi trường sinh hoạt đời sống tinh
thần vui tươi, lành mạnh cho cán bộ, viên chức, học viên bằng nhiều hình thức tổ
chức giao lưu đa dạng, phong phú như: Văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các
diễn đàn trao đổi theo chủ đề, chuyên đề có ý nghĩa thiết thực đến đời sống
hàng ngày. Thông qua các loại hình tổ chức sinh hoạt tập thể, mọi người có điều
kiện gần gũi, hiểu nhau hơn, chia sẻ tình cảm, chia sẻ những khó khăn thuận lợi
với nhau và từ đó mà tinh thần đoàn kết gắn bó càng bền chặt hơn.
3.Một số giải pháp
tăng cường khối đoàn kết tại Học viện Chính trị khu vực I
Thứ
nhất, trong mọi công tác chỉ đạo, điều hành, hoạt động tại Học viện phải tiếp tục
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đoàn kết là để tập hợp sức mạnh, là sự kết hợp nhiều người, mỗi
người một ưu điểm riêng mà người khác không có; đoàn kết là sự cảm thông, quan
tâm, chia sẽ, giúp đỡ lẫn nhau, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người.
Đoàn kết là sự gắn kết chặt chẽ mọi người với nhau, cùng đồng lòng chung sức, hỗ
trợ nhau để giải quyết công việc. Sự kết hợp ấy sẽ tạo nên sức mạnh to lớn giúp
mọi người vượt qua mọi khó khăn, đem lại kết quả tốt đẹp và thành công. Chủ tịch
Hồ Chí Minh xem đoàn kết là lẽ sống, là cội nguồn thắng lợi của dân tộc trong
quá trình dựng nước và giữ nước, vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên trong Học viện phải
thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Thứ
hai, coi việc giải quyết đúng đắn và hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của toàn Học viện. Việc bảo đảm
hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung
toàn Học viện sẽ tạo điều kiện để xây dựng khối đoàn kết thống nhất góp phần
xây dựng Học viện ngày càng phát triển vững mạnh.
Thứ
ba, tăng cường xây dựng Đảng bộ Học viện trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là hạt nhân của khối đại đoàn kết. Trong quá
trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc kỷ luật tự giác, nghiêm minh của Đảng.
Cần phải tiến hành đồng bộ, toàn diện đối với mọi tổ chức, cá nhân, gắn kết chặt
chẽ giữa đấu tranh, phê bình với các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế;
tạo ra phong trào và hành động cụ thể, thiết thực khi đấu tranh ngăn chặn, khắc
phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, coi trọng rèn luyện đạo đức cách mạng,
bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn trọng lẫn nhau cho cán bộ, đảng viên. Đặc
biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thật
sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống.
Thực
hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng, kịp thời biểu dương những đảng
viên gương mẫu. Tiếp tục chăm lo xây dựng chi ủy, đảng ủy các cấp luôn trong sạch,
vững mạnh, bảo đảm là hạt nhân trung tâm đoàn kết trong các cấp ủy đảng. Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp phải là người mẫu mực về đoàn kết, biết kết hợp,
xử lý hài hòa giữa các lợi ích, đặt lợi ích tập thể, lợi ích chi bộ lên trên hết,
có khả năng quy tụ tinh thần đoàn kết trong chi bộ.
Kết luận
Có
thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là ngọn cờ tư tưởng soi
đường, dẫn dắt cách mạng Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều thành tựu trên con đường
xây dựng và phát triển đất nước. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đại
đoàn kết dân tộc có ý nghĩa to lớn đối với mọi tổ chức, cá nhân, trong đó có tập
thể Học viện Chính trị khu vực I. Là cơ quan nghiên cứu, giảng dạy và phát triển
lý luận của Đảng, Học viện Chính trị khu vực I luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng
Hồ Chí Minh trong nhận thức, trong chỉ đạo và điều hành Học viện. Những thành
công trong quá trình xây dựng khối đoàn kết tại Học viện Chính trị khu vực I
chính là minh chứng cụ thể nhất cho sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tài liệu tham khảo:
[1]Nguyễn
Khánh Bật, Bùi Đình Phong, Hoàng Trang (1995), Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb. Nghệ An, Nghệ An.
[2]Đảng
Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3]Đảng
ủy Học viện Chính trị khu vực I (2022), Báo
cáo “Tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm
2023”
[4]Học
viện Chính trị khu vực I (2022), Báo cáo
“Tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023”
[5]Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6]Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[7]Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[8]Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[9]Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[10]Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[11]Phùng
Hữu Phú (chủ biên) (1998), Chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[12]Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống
nhất, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.