Thứ Hai, ngày 15/05/2023, 23:28

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc vào xây dựng khối đoàn kết tại Học viện Chính trị khu vực I

NGUYỄN THỊ THU HÀ
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc đã và đang tiếp tục soi đường cho cách mạng Việt Nam. Quán triệt quan điểm này, Học viện Chính trị khu vực I đã xây dựng khối đoàn kết tại Học viện đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp tăng cường xây dựng khối đoàn kết tại Học viện Chính trị khu vực I.

Ảnh Tư liệu

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước, ý thức cố kết dân tộc, cộng đồng được hình thành, tạo thành dòng chảy chủ đạo trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tinh thần ấy đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam, trở thành chất keo gắn kết toàn thể nhân dân Việt Nam, tạo nên động lực to lớn đưa đất nước vươn lên qua từng nấc thang lịch sử. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và thấu hiểu vai trò to lớn của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, quý giá, là phương thức cũng như là điều kiện để bảo đảm sự thành công trong tiến trình cách mạng. Từ thực tế cho thấy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đại đoàn kết dân tộc đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, có giá trị to lớn trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam nói chung và xây dựng khối đoàn kết ở Học viện Chính trị khu vực I nói riêng.

1.Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc

Một là, nhân dân là lực lượng và là nền tảng để xây dựng đại đoàn kết dân tộc

Đại đoàn kết dân tộc là tập hợp được mọi người dân vào cuộc đấu tranh chung. Do đó, Hồ Chí Minh khẳng định lực lượng xây dựng đoàn kết dân tộc là toàn dân. Người chỉ rõ: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”[5, tr.18-19], “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”[6, tr.501]. Người khẳng định: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[7, tr.244]. Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công - nông. Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”[9, tr.417].

Hai là, hình thức xây dựng khối đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất

Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Khát vọng độc lập, tự do, sống ấm no, hạnh phúc là mẫu số chung, là điểm gốc quy tụ tất cả người dân Việt Nam vào đại đoàn kết dân tộc. Vì thế, cần phải tập hợp nhân dân trong một mặt trận thống nhất về tư tưởng và hành động. Trong khối đại đoàn kết này, Đảng là thành viên của Mặt trận, đồng thời là lực lượng lãnh đạo tổ chức.

Đoàn kết toàn dân tộc là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt tộc người, tôn giáo, đảng phái.., với phương châm “cầu đồng tồn dị”: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”[10, tr.454]. Đoàn kết phải được xây dựng trên tinh thần vì mục tiêu chung, luôn tự phê bình và phê bình, đấu tranh để giữ gìn khối đoàn kết nhất trí: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”[8, tr.362].

Ba là, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng là hạt nhân cốt lõi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng Đảng. Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo, là hạt nhân của đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trước hết nói về Đảng - nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[9, tr.509]. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Đoàn kết trong Đảng ở đây theo Người là: Xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng và hành động, đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng và của dân tộc Việt Nam; là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế - là một cội nguồn làm nên sức mạnh của Đảng. Vì thế, các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; Đoàn kết phải được bảo vệ và không ngừng củng cố, phát triển trong Đảng. Tám chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” được xác định là nhiệm vụ căn cốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Bốn là, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung phong phú được thể hiện rõ ràng, nhất quán, qua nhận thức, quan điểm và hành động của Người. Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Vì theo Người, thân phận bất hạnh, bị bóc lột của người lao động nghèo trong nước và trên thế giới là cơ sở hình thành “tình hữu ái”, sự đoàn kết trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Những quan điểm trên đã trở thành một bộ phận quan trọng trong đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành phương châm hành động của toàn Đảng, toàn dân và là cơ sở để Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

2.Học viện Chính trị khu vực I với việc xây dựng khối đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Ảnh Tư liệu

Học viện Chính trị khu vực I là đơn vị trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Học viện Chính trị khu vực I (gọi tắt là Học viện) là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập ở khu vực phía Bắc theo sự phân công, phân cấp của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; góp phần nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghiên cứu các khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý; khoa học giáo dục và phương pháp dạy, học trong trường Đảng.

Trong quá trình hình thành và phát triển, khối đoàn kết tại Học viện đã và đang được tiếp tục được xây dựng, củng cố, là nhân tố góp phần to lớn vào thành tích chung của Học viện. Thành công trong việc xây dựng khối đoàn kết tại Học viện thể hiện trên các phương diện:

Một là, xây dựng khối đoàn kết tại Học viện đã nhận được sự đồng thuận trên dưới một lòng, cùng chung sức xây dựng, phát triển Học viện lớn mạnh từ người đứng đầu Học viện đến các cán bộ, viên chức. Ban Giám đốc Học viện luôn gương mẫu đi đầu, bảo đảm công bằng và bình đẳng cho cán bộ, viên chức Học viện trong việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trong quyền lợi chính trị, quyền lợi kinh tế; chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các cán bộ, viên chức; kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của toàn Học viện.

Hai là, xây dựng khối đoàn kết được thực hiện trên cơ sở tự phê bình, phê bình thẳng thắn, có trách nhiệm cao, có tinh thần xây dựng, không né tránh khuyết điểm, không đoàn kết một chiều, không đoàn kết hình thức. Từ tổ chức Đảng tới các tổ chức đoàn thể Học viện đều tạo cơ chế, cơ hội để mọi người phát huy tinh thần đấu tranh góp ý trực tiếp hoặc gián tiếp qua người đại diện với mục tiêu vì cái chung, vì sự tiến bộ của cá nhân hay tập thể. Sự trao đổi thẳng thắn đó chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm, “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn, giúp nhau khắc phục khuyết điểm, tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Do đó, không có những hành vi lợi dụng danh nghĩa đấu tranh phê bình để mưu cầu lợi ích riêng, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người khác, làm ảnh hưởng tới khối đoàn kết trong Học viện. Học viện đã xây dựng một môi trường làm việc với tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, luôn tạo cơ hội cho mọi người có điều kiện phát triển. Do đó, đã tạo nên tinh thần cộng đồng chung tay xây dựng Học viện ngày càng phát triển.

Ba là, tạo dựng niềm tin cho cán bộ, viên chức, học viên của Học viện được coi là một trong những điều kiện làm cho khối đoàn kết trong Học viện được nâng cao. Có được thành công này là nhờ các đồng chí trong Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện, các đồng chí trưởng các đoàn thể chính trị xã hội, các đồng chí trưởng, phó các đơn vị trong Trường đã luôn gương mẫu đi đầu trong mọi công tác. Luôn phát huy dân chủ, công khai minh bạch đã giúp cho cán bộ, viên chức, học viên trong Học viện đều thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc đóng góp cho Học viện ở các phạm vi, mức độ, các lĩnh vực khác nhau.

Bốn là, Học viện vừa tập trung làm tốt công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, giảng viên; vừa tạo môi trường cảnh quan xanh, sạch, đẹp; vừa quan tâm xây dựng môi trường sinh hoạt đời sống tinh thần vui tươi, lành mạnh cho cán bộ, viên chức, học viên bằng nhiều hình thức tổ chức giao lưu đa dạng, phong phú như: Văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các diễn đàn trao đổi theo chủ đề, chuyên đề có ý nghĩa thiết thực đến đời sống hàng ngày. Thông qua các loại hình tổ chức sinh hoạt tập thể, mọi người có điều kiện gần gũi, hiểu nhau hơn, chia sẻ tình cảm, chia sẻ những khó khăn thuận lợi với nhau và từ đó mà tinh thần đoàn kết gắn bó càng bền chặt hơn.

3.Một số giải pháp tăng cường khối đoàn kết tại Học viện Chính trị khu vực I

Thứ nhất, trong mọi công tác chỉ đạo, điều hành, hoạt động tại Học viện phải tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết là để tập hợp sức mạnh, là sự kết hợp nhiều người, mỗi người một ưu điểm riêng mà người khác không có; đoàn kết là sự cảm thông, quan tâm, chia sẽ, giúp đỡ lẫn nhau, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Đoàn kết là sự gắn kết chặt chẽ mọi người với nhau, cùng đồng lòng chung sức, hỗ trợ nhau để giải quyết công việc. Sự kết hợp ấy sẽ tạo nên sức mạnh to lớn giúp mọi người vượt qua mọi khó khăn, đem lại kết quả tốt đẹp và thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đoàn kết là lẽ sống, là cội nguồn thắng lợi của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên trong Học viện phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Thứ hai, coi việc giải quyết đúng đắn và hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của toàn Học viện. Việc bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung toàn Học viện sẽ tạo điều kiện để xây dựng khối đoàn kết thống nhất góp phần xây dựng Học viện ngày càng phát triển vững mạnh.

Thứ ba, tăng cường xây dựng Đảng bộ Học viện trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là hạt nhân của khối đại đoàn kết. Trong quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc kỷ luật tự giác, nghiêm minh của Đảng. Cần phải tiến hành đồng bộ, toàn diện đối với mọi tổ chức, cá nhân, gắn kết chặt chẽ giữa đấu tranh, phê bình với các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế; tạo ra phong trào và hành động cụ thể, thiết thực khi đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, coi trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tình yêu thương đồng chí, tôn trọng lẫn nhau cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thật sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống.

Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng, kịp thời biểu dương những đảng viên gương mẫu. Tiếp tục chăm lo xây dựng chi ủy, đảng ủy các cấp luôn trong sạch, vững mạnh, bảo đảm là hạt nhân trung tâm đoàn kết trong các cấp ủy đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp phải là người mẫu mực về đoàn kết, biết kết hợp, xử lý hài hòa giữa các lợi ích, đặt lợi ích tập thể, lợi ích chi bộ lên trên hết, có khả năng quy tụ tinh thần đoàn kết trong chi bộ.

Kết luận

Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là ngọn cờ tư tưởng soi đường, dẫn dắt cách mạng Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều thành tựu trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa to lớn đối với mọi tổ chức, cá nhân, trong đó có tập thể Học viện Chính trị khu vực I. Là cơ quan nghiên cứu, giảng dạy và phát triển lý luận của Đảng, Học viện Chính trị khu vực I luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận thức, trong chỉ đạo và điều hành Học viện. Những thành công trong quá trình xây dựng khối đoàn kết tại Học viện Chính trị khu vực I chính là minh chứng cụ thể nhất cho sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

[1]Nguyễn Khánh Bật, Bùi Đình Phong, Hoàng Trang (1995), Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb. Nghệ An, Nghệ An.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3]Đảng ủy Học viện Chính trị khu vực I (2022), Báo cáo “Tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023”

[4]Học viện Chính trị khu vực I (2022), Báo cáo “Tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2023”

[5]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[9]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[10]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[11]Phùng Hữu Phú (chủ biên) (1998), Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[12]Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

Tác giả: NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.