Đặt vấn đề
Ở Việt Nam, các thế lực thù địch
thường lợi dụng sự khác nhau về phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của
các dân tộc thiểu số (DTTS)
để xuyên tạc chủ trương của Đảng, kích động các DTTS ly khai, chống đối Nhà nước
Việt Nam. Vì vậy, cán bộ, đảng viên và Nhân dân cần nắm vững chủ trương, đường
lối, chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước để vận dụng và thực hiện
hiệu quả; đồng thời nhận diện âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo trong đồng bào DTTS để chống phá cách mạng Việt Nam, góp phần ổn định
chính trị - xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn
văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh và chủ quyền quốc gia.
1. Nhận diện, đấu tranh với âm mưu lợi dụng
vấn đề dân tộc và tôn giáo của các thế lực thù địch
1.1. Về vấn đề dân tộc
Thứ nhất, đánh tráo khái
niệm “quyền dân tộc tự quyết của dân tộc quốc gia” với quyền của “dân tộc tộc
người”.
Các thế lực thù địch thường đánh
tráo khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của các “dân tộc quốc gia”
(nation-states) với quyền của “dân tộc tộc người” (ethnic groups) nhằm kích động, tuyên truyền tư
tưởng ly khai tự trị trong đồng bào các DTTS, thành lập “nhà nước Mông” tự trị ở
vùng Tây Bắc; “nhà nước Đề ga” ở Tây Nguyên; “nhà nước Khmer Krom” ở Tây Nam Bộ.
Trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, dân tộc tự quyết được
coi là nguyên tắc để duy trì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Hiến chương
khẳng định: “Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng
quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc”[7].
Ngày 14/12/1960, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ban hành Nghị
quyết số 1514 (XV) thông qua Tuyên bố về Trao trả độc lập cho các
nước và các dân tộc thuộc địa; tại Điều 2, Nghị quyết chỉ rõ: “Tất cả các dân tộc có quyền tự quyết xuất phát từ quyền
này, các dân tộc tự do quyết định địa vị chính trị của mình và tự do theo đuổi
sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa”[8].
Công ước quốc tế về “Các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa” (Nghị quyết số 2200A (XXI) ngày
16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc), Điều 2 quy định: “Mọi dân tộc đều có quyền tự
quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của
mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá”[9].
Có thể thấy, trên bình diện quốc tế, quyền dân tộc tự quyết
là việc một quốc gia - dân tộc có quyền tự chủ đối với vận mệnh của dân tộc
mình, quyền quyết định về thể chế chính trị, con đường phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Khái niệm “quyền dân tộc thiểu số” được
chính thức ghi nhận tại Điều 27 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR 1966): “Ở những Quốc gia tồn tại các nhóm thiểu số về sắc tộc,
tôn giáo hoặc ngôn ngữ, những người thuộc các nhóm thiểu số đó sẽ không bị từ
chối quyền, trong cộng đồng với các thành viên khác trong nhóm của họ, được hưởng
nền văn hóa của họ, tuyên xưng và thực hành tôn giáo của họ, hoặc sử dụng ngôn
ngữ riêng của họ”. Còn chủ thể quyền dân tộc tự quyết là quốc gia - dân tộc chứ
không phải là một DTTS trong quốc gia - dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không cho
phép một DTTS ở một quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập
với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó[1].
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc (ethnic groups), với
người Kinh là đa số (chiếm 85,3% dân số). Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
là: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển...”[6, tr.170].
Hiến pháp năm 2013 quy định: “1) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; 2) Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân
tộc; 3) Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống
và văn hóa tốt đẹp của mình; 4) Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn
diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển
với đất nước”[12].
Thứ hai, các thế lực thù địch thường lợi dụng sự khác biệt và
phát triển không đều giữa các dân tộc nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, vu
cáo Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm tới đồng bào các DTTS để kích động
tư tưởng ly khai, tự trị.
Ở Việt Nam, các DTTS mặc dù nguồn gốc
lịch sử, phong tục tập quán khác nhau, hình thành ở những thời điểm lịch sử
khác nhau, nhưng các tộc người đều chịu sự tác động của các điều kiện lịch sử
nên đã sớm có ý thức chung về một quốc gia - dân tộc. Các DTTS ở Việt Nam cư
trú phân tán, xen kẽ cho nên các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người
riêng.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều giữa các
vùng và các tộc người. Do vậy, khắc phục sự phát triển không đồng đều về kinh tế
- xã hội giữa các tộc người là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “...
Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển,
tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng DTTS
trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy
tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các DTTS phát triển kinh tế
- xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng DTTS. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[6, tr.170-171]. Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, quy định: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất
khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”[12].
1.2. Về vấn đề tôn giáo
Thứ nhất, một số tổ chức, cơ quan nước ngoài như Bộ Ngoại giao Mỹ (DOS) (2020)[13, tr.1], Ủy ban Tự
do Tôn giáo Quốc tế Mỹ (USCIRF)[14,
tr.52], Bộ Ngoại giao và Thương Mại Úc (DFAT)[2, tr.20-21], Tổ chức Theo dõi Nhân quyền
(HRW)[10, tr.638],
đưa ra các quan điểm cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam có chính sách hạn chế tự
do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có quan điểm, chủ trương
và chính sách nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người, được thể hiện cụ thể trong các Văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là các Nghị quyết chuyên đề về
tôn giáo: Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16 tháng 10 năm 1990 về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Nghị quyết
số 25-NQ/2003/TW ngày 12/3/2003 về “Công tác tôn giáo”...
Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: "Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật"[12]. Cụ thể hóa quy
định của Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp
thứ hai thông qua ngày 18/11/2016); Luật này tiếp tục được quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành bằng Nghị định số 162/2017/NĐ-CP (ngày 30 tháng 12 năm
2017).
Quan điểm, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước Việt Nam đều ghi nhận, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định trong các
công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, cụ thể, tại Điều 18 của Công ước Quốc
tế về Quyền Dân sự, Chính trị (ICCPR) 1966 và Điều 18 của Tuyên ngôn quốc tế về
quyền con người 1948. Các văn kiện quốc tế không chỉ quy định các quyền con người,
trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn quy định cụ thể giới hạn của
quyền; Khoản 3, Điều 18, ICCPR quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín
ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết
để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo
vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”[1].
Thứ hai, một số tổ chức thường
lấy các trường hợp cá nhân công dân Việt Nam vi phạm pháp luật và bị xét xử
theo quy định của pháp luật để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, hạn chế, phân
biệt đối xử với người có tôn giáo.
Một số trường hợp trong Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế
2020 Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ[13, tr.12], Báo cáo hàng năm 2021 của Ủy ban về tự do
tôn giáo quốc tế Mỹ[14,
tr.53], Báo cáo thế giới 2020 của tổ chức Theo dõi nhân quyền[11, tr.638-639], đều
là những cá nhân vi phạm pháp luật và đã bị xử lý theo các quy định của pháp luật
Việt Nam. Những cá nhân này bị xử lý không phải vì lý do liên quan đến quyền tự
do tôn giáo, thể hiện niềm tin tôn giáo như chứng dẫn của các bản báo cáo trên.
Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, Việt
Nam có 16 tôn giáo chính thức hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, với 13,2 triệu
người theo tôn giáo, chiếm 13,7% tổng dân số cả nước[3]. Thuộc các tôn giáo chính thức hoạt động
có 43 tổ chức/pháp môn tôn giáo đã được công nhận hoặc được cấp giấy chứng nhận
Đăng ký hoạt động tôn giáo[5].
Các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được đầu tư ngày càng tăng từ sự đóng góp từ cộng
đồng tín đồ, người hảo tâm, các thủ tục hành chính về sử dụng đất đai tôn giáo,
in, phát hành kinh sách, đào tạo chức sắc, xây dựng, trùng tu, tôn tạo các công
trình tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được hoàn thiện, đơn giản hóa, đáp ứng nhu
cầu hoạt động của các tổ chức tôn giáo, nhu cầu về tôn giáo của một bộ phận quần
chúng nhân dân.
2. Một số giải
pháp đấu tranh phòng, chống âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo của các
thế lực thù địch
2.1. Nhóm giải pháp trên bình diện quốc tế
Thứ nhất, chủ động,
tích cực đấu tranh ngoại giao trong các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Chủ động lồng ghép các biện pháp và nội dung vận động đấu tranh về dân tộc,
tôn giáo trong công tác đối ngoại, đặc biệt là trong các hoạt động ngoại giao
quy mô lớn và trong lộ trình thúc đẩy quan hệ ổn định, lâu dài với Mỹ và phương
Tây; tăng cường thông tin, tuyên truyền đối ngoại đề cao chính sách, luật pháp
và thành tựu của Việt Nam, vừa kiên quyết đấu tranh, vừa bày tỏ thiện chí đối
thoại và hợp tác về dân tộc, tôn giáo với các nước này trên cơ sở bình đẳng,
tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp công việc nội bộ của mỗi nước;
chủ động hơn đối với việc đưa nội dung dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo
vào nội dung làm việc của lãnh đạo cấp cao của Việt Nam khi đi thăm các nước hoặc
trong dịp đón lãnh đạo các nước thăm Việt Nam, qua đó quảng bá về các thành tựu
bảo đảm quyền con người và chủ động đấu tranh trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền,
dân tộc, tôn giáo[8].
Thứ hai, tiếp tục thể chế hóa
các quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Cụ thể, trước
hết cần tiếp tục thúc đẩy cải cách tư pháp, củng cố thể chế, chính sách, pháp
luật về quyền con người phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam là thành viên. Đồng thời, tuân thủ đầy đủ các quy định quốc tế về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo thông qua việc cụ thể hóa các quyền này trong quy định
của Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam.
Thứ ba, tăng cường tham gia
các hoạt động quốc tế, thể hiện vai trò là thành viên tích cực và có trách nhiệm
của Liên Hợp Quốc và các Công ước quốc tế, nhất là về lĩnh vực quyền con người,
trong đó có quyền tự do tôn giáo.
Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế, có quan hệ
với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực
với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng
Pháp, ASEAN... Trước hết cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 25-CT/TW,
ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến
năm 2030”; thực hiện nhất quán chính sách về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người,
coi trọng Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR)
của Hội đồng Nhân quyền (HRC) và các khuyến nghị của Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát mà Việt Nam đã chấp thuận[4, tr.5], qua đó góp
phần thể hiện vai trò của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
2.2. Nhóm
giải pháp trong nước
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân tôc, tôn giáo. Mỗi cấp ủy đảng,
theo chức năng, nhiệm vụ của mình cần làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo chính
quyền và cấp ủy cấp dưới thực hiện tốt các nội dung công tác dân tộc, tôn giáo.
Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về
dân tộc, tôn giáo. Đối với cấp xã, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, cần linh
hoạt các phương thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp với đặc điểm về ngôn ngữ,
phong tục, tập quán và điều kiện tự nhiên của địa phương, của cộng đồng các
DTTS.
Thứ hai, quan tâm đầu tư, thực hiện
chính sách dân tộc phù hợp với thực tiễn của từng địa phương và từng DTTS. Kiện
toàn, củng cố hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cơ sở; quan tâm làm tốt công
tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bố trí hợp lý cơ cấu cán bộ DTTS đối với các
chức danh chủ chốt ở cơ sở; phát huy vai trò của Bí thư Chi bộ, trưởng bản, trưởng
dòng họ, già làng, người có uy tín; phân công cán bộ hiểu biết phong tục tập
quán của đồng bào về công tác ở vùng dân tộc DTTS.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác
quản lý nhà nước về tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ cần tham mưu cho Chính phủ
tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tôn giáo, đặc biệt là xử lý vi phạm
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn Sở Nội vụ triển khai có hiệu quả chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo. Sở Nội vụ các tỉnh tham mưu cho Ủy ban nhân dân các tỉnh hướng dẫn và tạo
điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, các điểm, nhóm tôn giáo tổ chức các lễ trọng
của tôn giáo…; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo.
Thứ tư, tăng cường công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; đấu tranh chống các quan điểm sai trái,
thù địch phá hoại khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Qua tổng kết thực
tiễn, những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện các chính sách theo điều
kiện thực tiễn của địa phương được phát hiện, từ đó giúp có những đề xuất trong
điều chỉnh, bổ sung các chính sách. Để có thể đấu
tranh với hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo một cách có hiệu quả, các
cơ quan quản lý nhà nước về dân tộc và tôn giáo nói riêng, toàn hệ thống chính
trị nói chung, cần tăng cường công tác nắm tình hình từ đó đề ra các phương thức
đấu tranh ngăn chặn hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo vì mục đích chính trị,
kích động gây mất đoàn kết dân tộc và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Kết luận
Trong những năm qua, vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng các
DTTS luôn là điểm nóng để các thế lực thù địch lợi dụng, nhằm xuyên tạc chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện âm mưu trên, các thế lực
thù địch đã sử dụng nhiều thủ đoạn, bằng nhiều cách thức như thành lập các tổ
chức phản động của người DTTS ở cả trong và ngoài nước; tận dụng tối đa các
phương tiện thông tin truyền thông để phát tán tài liệu, tin tức xuyên tạc; lợi
dụng, lôi kéo đồng bào theo tôn giáo trái pháp luật nhằm gieo rắc tư tưởng ly
khai, tạo mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo; chia rẽ khối đoàn kết
dân tộc, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, yêu cầu về bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là yêu cầu quan trọng
và cấp thiết trong xây dựng Đảng. Việc
làm có ý nghĩa quyết định là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước; phát huy truyền thống đoàn kết; tập trung sức xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh và kiện toàn đội ngũ
cán bộ dân tộc DTTS; sớm thu hẹp khoảng cách chênh lệch về các mặt giữa các dân
tộc, giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc thiểu số. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần phát triển đất nước bền vững theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Quốc An (2018), Không thể đánh đồng quyền dân tộc tự quyết và quyền của dân tộc thiểu số,
https://www.qdnd.vn
[2] Australian Government Department of Foreign
Affairs and Trade (2019), Country
Information Report Vietnam, https://www.dfat.gov.au
[3] Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương
(2019), Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở
thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
[4] Bộ Ngoại giao (2018), Báo
cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà
soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, https://issuu.com/mofavietnam
[5] Bộ Nội vụ (2020), Công
văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28 tháng 12 năm 2020,
Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động
tôn giáo tính đến tháng 12/2020, Hà Nội.
[6] Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
[7] Liên Hợp Quốc (1945), Hiến
chương Liên Hợp Quốc, https://thuvienphapluat.vn
[8] Liên Hợp Quốc (1960), Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa,
https://thuvienphapluat.vn
[9] Liên Hợp Quốc (1966), Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, https://thuvienphapluat.vn
[10] Hoàng Nam (2020), Tăng
cường công tác đối ngoại, đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở
nước ta, https://www.tapchicongsan.org.vn
[11]
Human Rights Watch (2021), World Report
2020, https://www.hrw.org
[12]
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, https://datafiles.chinhphu.vn
[13]
United States Department of State (2020), Vietnam
2020 International Religious Freedom Report.
[14] United States Commission on International
Religious Freedom (2022), Annual Report 2021,
https://www.uscirf.gov