
Bộ trưởng Ngoại giao
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày
27/1/1973, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris (Pháp) _Ảnh: Tư
liệu
I. Cuộc đàm phán ở
Hội nghị Paris là hoạt động ngoại giao lớn nhất, quan trọng nhất của Việt Nam,
là một sự kiện quốc tế được dư luận thế giới chú ý nhiều nhất bởi vì:
1- Cuộc đàm phán gắn liền với diễn biến trên
chiến trường Việt Nam và Đông Dương. Thông qua diễn tiến đàm phán và dư luận quốc
tế, người ta dễ dàng hiểu được thế trận trên chiến trường, cũng như qua tình
hình chiến trường và dư luận quốc tế, người ta có thể phán đoán được diễn tiến
cuộc đàm phán. Thế trận trên bàn đàm phán hoàn toàn phụ thuộc vào thế trận trên
chiến trường.
2- Cuộc đàm phán là cuộc đối đầu giữa hai bên về
ngoại giao: một bên là nền ngoại giao nhà nghề, lâu đời của một siêu cường với
chính sách đàm phán trên thế mạnh, củ cà rốt đi liền với cái gậy; một bên là nền
ngoại giao non trẻ của nhà nước cách mạng với chính sách ngoại giao nhân dân, dựa
vào đạo lý và thế chính nghĩa.
3- Cuộc đàm phán suốt thời gian dài trước hết
là cuộc đấu lý, đấu tranh để phân biệt phải trái, đúng sai, để tranh thủ dư luận
thế giới và dư luận trong nước Mỹ. Cả hai phía đều rất coi trọng yêu cầu này
cho đến khi tình hình chiến trường tạo được thời cơ, hai bên mới đi vào mặc cả
về giải pháp.
Do có tính chất như vậy nên cuộc đàm phán có những đặc điểm
chính sau đây:
Một
là, cuộc đàm phán Paris là một cuộc đàm phán quốc
tế kéo dài. Tính từ lúc mở đàm phán song phương Việt Nam - Mỹ ngày 13.5.1968 đến
ngày ký Hiệp định 27.1.1973 là 4 năm, 8 tháng, 14 ngày.
Hai
là, cuộc đàm phán Paris có nhiều diễn đàn khác
nhau: đàm phán song phương Việt Nam - Mỹ (1968); diễn đàn bốn bên: Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà - Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam - Mỹ -
chính quyền Sài Gòn (1969 - 1971); diễn đàn gặp riêng (đàm phán bí mật) Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà - Mỹ (1971 - 1973).
Ba
là, nội dung đàm phán có hai phần chính: đấu
tranh đạo lý, phân biệt đúng sai là phần chủ yếu, chiếm tới 80% thời gian đàm
phán và chủ yếu diễn ra công khai tại diễn đàn bốn bên.
Bốn
là, đàm phán đã gay go đến khi kết thúc việc ký
kết các văn bản cũng rất phức tạp và khác thường:
-
Văn bản chính là văn bản Hiệp định, có hai văn bản khác nhau: văn bản Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ký với Hoa Kỳ ký và văn bản bốn bên tham chiến ký.
-
Bốn Nghị định thư.
-
Tám bản hiểu biết, nêu những thoả thuận và cam kết của hai bên mà vì tế nhị ngoại
giao không đưa được vào các văn kiện công khai.
-
Cụ thể hoá Điều 21 về đóng góp của Mỹ để hàn gắn vết thương chiến tranh, có
riêng một thông điệp của Tổng thống Mỹ.
Năm
là, trên bình diện quốc tế, cuộc đàm phán và Hiệp
định Paris được dư luận quan tâm; các báo, các hãng thông tấn lớn luôn luôn có
tường thuật, bình luận về diễn biến cuộc đàm phán; rất nhiều nhà báo quốc tế
theo dõi sát cuộc đàm phán suốt gần năm năm. Đó cũng là một thuận lợi cho Việt
Nam.
Sáu
là, các chính phủ, chính giới các nước cũng rất quan tâm tới cuộc đàm phán.
Liên Xô, Trung Quốc - hai đồng minh chính của Việt Nam; Pháp - nước chủ nhà đều
có tổ chức riêng theo dõi cuộc đàm phán để tìm cách tác động theo lợi ích chiến
lược từng nước. Các nước khác ít liên quan trực tiếp cũng chú ý theo dõi cuộc
chiến tranh và tình hình đàm phán.
II. Cuộc đàm phán
Paris kéo dài, các bên đã ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Việt Nam, các văn kiện được ký kết bao gồm nhiều nội dung về các vấn đề
chính trị, quân sự, nội bộ miền Nam… Những vấn đề lớn và cơ bản nhất trong Hiệp
định Paris phản ánh thắng lợi to lớn của ta, cũng là cơ sở chính trị và pháp lý
vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam tiếp tục phát triển sau đó.
Thứ
nhất, quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam
và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Đi
vào Hiệp định Paris, phía Việt Nam kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ phải cam kết tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một trong những mục tiêu xuyên suốt cơ bản nhất,
quan trọng nhất của cách mạng nước ta. Tại cuộc đàm phán này, nhiều lần phía Mỹ
tìm mọi cách lẩn tránh hoặc hạ thấp giá trị của vấn đề. Cuối cùng, điều khoản
này được đưa vào vị trí trang trọng nhất, thành một chương riêng của Hiệp định.
“Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Về
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, Hiệp định ghi rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà và Chính phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam sau đây:
1)
Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm
và phải được tất cả các nước tôn trọng.
2)
Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt
Nam thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
3)
Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoặc cá nhân nào
đối với nhân dân miền Nam Việt Nam” (Điều 9).
Liên
quan đến quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết như đã nêu, còn có điều khoản
ràng buộc cụ thể hơn:
“Hoa
Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của
miền Nam Việt Nam” (Điều 4).
Những
cam kết này vừa là nền tảng chính trị và pháp lý của toàn bộ Hiệp định vừa có ý
nghĩa khẳng định cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam là trái đạo lý và
pháp lý quốc tế. Nó cũng là cơ sở pháp lý mạnh mẽ bảo đảm đưa cách mạng miền
Nam tiếp tục tiến lên và là công cụ hữu hiệu ngăn chặn Mỹ can thiệp trở lại vào
công việc nội bộ của Việt Nam.
Thứ
hai, Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ và
quân đồng minh, chấm dứt đánh phá miền Bắc, phá huỷ các căn cứ quân sự của Mỹ ở
miền Nam.
Hiệp
định ghi rõ: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này, sẽ hoàn thành
việc rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và
nhân viên quân sự… của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác…” (Điều 5). “Việc huỷ bỏ tất cả căn cứ quân sự ở miền
Nam Việt Nam của Hoa Kỳ… sẽ hoàn thành trong thời hạn 60 ngày… (Điều 6) và… Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân
sự của Hoa Kỳ trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà… (Điều 2), còn “Các lực lượng vũ trang của hai bên
miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình” (Điều
3b).
Như
vậy, yêu cầu cơ bản nhất của Việt Nam trong đàm phán là Mỹ chấm dứt chiến
tranh, rút hết quân, ngừng bắn tại chỗ; các lực lượng vũ trang của hai bên miền
Nam sẽ ở nguyên vị trí; việc quân miền Bắc không được nói đến trong Hiệp định
Paris là thắng lợi cơ bản của ta trước luận điệu và đòi hỏi vô lý của phía Mỹ
đưa ra.
Như
vậy, Hiệp định Paris đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta, tạo ra một bước ngoặt lớn
cho cách mạng miền Nam: Mỹ rút, Ngụy suy yếu, quân ta ở lại và mạnh lên. Đây là
cơ sở có tính chất quyết định để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên, tiến tới giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thứ
ba, xác nhận trên lãnh thổ miền Nam có hai
chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, ba lực lượng chính trị; hai
chính quyền hiệp thương giải quyết các vấn đề nội bộ miền Nam.
Tất
cả các điều khoản quân sự - chính trị về miền Nam phản ánh thực tế tình hình miền
Nam sau khi ngừng bắn được các bên công nhận: hai chính quyền ở miền Nam -
chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
cùng song song tồn tại. Mỗi bên quản lý vùng do mình kiểm soát và giữ quyền
quan hệ ngoại giao vốn có. Lực lượng chính trị, vũ trang của hai bên giữ nguyên
vẹn và “ở nguyên vị trí” (Điều 3b). Về các vấn
đề chính trị, Hiệp định Paris đề ra các nguyên tắc và phương hướng lớn: “hai
bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương… để thành lập Hội đồng quốc gia hoà giải
và hoà hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau” (Điều
12a). Vậy là các điều khoản của Hiệp định đưa tới việc thừa nhận trên thực
tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng
chính trị. Hai chính quyền bình đẳng với nhau và cùng chịu trách nhiệm về tương
lai của miền Nam Việt Nam.
Ngoài
ra, những quy định này còn có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng. Chính quyền Sài
Gòn không còn là thực thể hợp pháp duy nhất ở miền Nam; Chính phủ Cách mạng lâm
thời lại giành được thế hợp pháp. Từ nay, mọi vấn đề của miền Nam đều phải có
tiếng nói của chính quyền cách mạng. Về thực tế, các điều khoản này mở ra con
đường hợp pháp và dân chủ hoá để xoá bỏ hai chính quyền tạm thời song song tồn
tại này, tiến tới thành lập một chính quyền dân chủ, tiến bộ, thống nhất cho cả
miền Nam.
Thứ
tư, Mỹ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết
thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.
Mỹ
cam kết “… sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây
dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và toàn Đông Dương” (Điều 21). Công hàm của Tổng thống Hoa Kỳ gửi Thủ
tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (một văn kiện kèm theo Hiệp định) ghi rõ Mỹ cam
kết đóng góp khoảng 3,25 tỷ đô la viện trợ không hoàn lại trong thời gian năm
năm. Cam kết của Mỹ trên thực tế là sự thừa nhận tính chất phi đạo lý và trái với
luật pháp quốc tế của cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ chống Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
Thứ
năm, vấn đề Campuchia và Lào.
Theo
tinh thần và nội dung của Hiệp định, Việt Nam và Hoa Kỳ giải quyết ngừng bắn
chung và có giải pháp toàn bộ cho toàn cõi Đông Dương với lập luận rằng: sở dĩ
có chiến tranh ở Lào và Campuchia là do có chiến tranh Việt Nam. Lập trường trước
sau như một của Việt Nam là: Lào và Campuchia là hai nước độc lập, có chủ quyền.
Việt Nam chỉ có thể giải quyết với Mỹ mặt quốc tế của vấn đề Lào, Campuchia - tức
là giải quyết việc Mỹ chấm dứt can thiệp vào Lào và Campuchia liên quan đến việc
Việt Nam giúp đỡ cách mạng hai nước này. Chừng nào còn xâm lược thì nhân
dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia còn đoàn kết chiến đấu chống xâm lược.
Các
nước ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Campuchia và Lào. Những vấn đề
liên quan giữa các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết... Cách
mạng ba nước lần lượt giành thắng lợi trọn vẹn, đó là kết quả của sự phối hợp đấu
tranh về quân sự, chính trị và ngoại giao của nhân dân ba nước Đông Dương.
Thứ
sáu, bộ máy tổ chức thi hành và giám sát thi hành Hiệp định.
Đây
là vấn đề rất quan trọng và tế nhị vì thành phần của bộ máy này cũng có thể
giúp cho bên này hay bên kia giành lợi thế vào đúng thời điểm ngừng bắn có hiệu
lực hoặc trong quá trình đàm phán, hai bên đã đấu tranh quyết liệt để bảo vệ
quan điểm, lập trường của mình về cơ cấu, thành phần, số lượng người, trang thiết
bị của các Ban Liên hợp quân sự và Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát.
Từ
kinh nghiệm Hiệp định Geneve 1954 quy định Ban Liên hợp quân sự có vai trò thứ
yếu, Uỷ ban quốc tế đóng vai trò chính, nay Việt Nam đấu tranh đòi Hiệp định
Paris xác định Ban Liên hợp quân sự đóng vai trò chính, Uỷ ban quốc tế có vai
trò quan trọng nhưng không thể có quyền lực lớn hơn Ban Liên hợp quân sự. Các
điều khoản Hiệp định Paris chỉ mới giải quyết những vấn đề nguyên tắc, còn những
vấn đề thể thức thực hiện các điều khoản đó phải do Ban Liên hợp quân sự thay mặt
cho các bên quy định. Hơn nữa, trong Hiệp định cũng có những điều mà các bên đã
giao cho Ban Liên hợp quân sự quy định thể thức thực hiện như ngừng bắn, quy định
vùng do mỗi bên kiểm soát… Cuối cùng, do quy định nhiệm vụ như vậy nên bộ máy
Ban Liên hợp quân sự gồm 3.300 người, còn Uỷ ban quốc tế chỉ có 1.150 người.
Vấn
đề quan trọng nữa là việc chọn thành phần các nước tham gia Uỷ ban quốc tế. Ta
chủ trương thành phần của Uỷ ban quốc tế lần này cần có bốn nước và kết quả là
Uỷ ban này gồm: Ba Lan, Hunggari, Indonexia, Canada. Mặt khác, ta đưa được hai
nguyên tắc quan trọng vào hoạt động của Uỷ ban quốc tế là phải tôn trọng chủ
quyền của Việt Nam và nguyên tắc nhất trí trong các kết luận của Uỷ ban. Hai
nguyên tắc này đều có lợi cho ta.
Thành
phần và nhiệm vụ của Hội nghị quốc tế do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ
thoả thuận, được nêu rõ trong Điều 19 của Hiệp định Paris. Về nội dung Định ước
quốc tế, cơ bản cũng do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ thoả thuận. Hội nghị
quốc tế và Định ước của Hội nghị là cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng cho
công cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Paris, đồng thời cũng đã nâng cao vai
trò và vị thế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trên
trường quốc tế.
III. Thành
công lớn nhất và cũng là nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của
Đảng, sự chỉ đạo của Trung ương và Bộ Chính trị khi tiến hành cuộc đấu tranh
trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, gắn ngoại giao với chiến
trường và tình hình quốc tế.
Thứ
nhất, đó là nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ của đàm
phán. Trước hết là đàm phán phục vụ đấu tranh quân sự trên chiến trường, tấn
công kiềm chế kẻ địch, góp phần kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, trực tiếp góp
phần tranh thủ dư luận, củng cố hậu phương quốc tế của ta, tạo rối loạn cho hậu
phương quốc tế và hậu phương trong nước của chính quyền nước Mỹ.
Thứ
hai, vận dụng một phương sách và nghệ thuật đàm
phán khôn khéo, vững chắc; phát huy tối đa chỗ mạnh của ta về chính trị, xoáy
vào chỗ yếu của Mỹ là chiến tranh phi nghĩa và ở vào thế nhất thiết phải rút khỏi
Việt Nam. Từ đó tìm tòi vận dụng những sách lược và lập luận đấu tranh có sức
tranh thủ và thuyết phục, áp chế được đối phương và đáp ứng mong đợi của dư luận,
của bạn bè.
Thứ
ba, đàm phán dựa trên cơ sở nắm chắc tình hình
chiến trường, nội bộ nước Mỹ và tình hình quốc tế, chủ động về bước đi, phối hợp
chặt chẽ giữa đàm phán công khai và đàm phán bí mật, giữa đàm phán với vận động
quốc tế. Nhờ vậy, Việt Nam giữ được độc lập tự chủ trong đàm phán, đồng thời phối
hợp với anh em, bạn bè nhưng không để ai tác động vào bước đi của ta. Cuộc đàm
phán Paris thật sự đã góp phần củng cố niềm tin và sự ủng hộ của bạn bè, mở rộng
mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Thắng
lợi của đàm phán Paris cùng với cuộc chiến đấu ở trong nước đem lại cho Việt
Nam các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ; buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris công nhận các quyền đó. Hiệp định đáp ứng
các nguyện vọng và các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam Việt Nam và đáp ứng nguyện vọng tha thiết về hoà bình của tất
cả các nước trên thế giới. Hiệp định là một cống hiến to lớn đối với hoà bình,
quyền tự quyết, độc lập dân tộc và việc cải thiện quan hệ giữa các nước./.
(theo lyluanchinhtrivatruyenthong.vn)
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và truyền
thông số 12/2022