Thứ Sáu, ngày 30/08/2024, 08:49

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, đặc điểm của giai cấp công nhân trong thế kỷ XIX và những điểm mới về nhận thức hiện nay

Phạm Phương Lan
Trường Đại học Công đoàn.

(GDLL) - Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin bổ sung, phát triển và hoàn thiện trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc. Ngay từ khi ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Bài viết đi sâu phân tích nguồn gốc, đặc điểm giai cấp công nhân thế kỷ XIX theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin cùng với đó là những luận giải mới về giai cấp công nhân trong Thời đại ngày nay.

Giai cấp công nhân Việt Nam đổi mới, sáng tạo, đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (ảnh: news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Nhận thức và luận giải đầy đủ, đúng đắn những điểm tương đồng về điểm mới của giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân trong thế kỷ XIX không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong Thời đại ngày nay. Như V.I.Lênin đã từng khẳng định: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[4, tr.232].

1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc của giai cấp công nhân và những điểm mới về nhận thức hiện nay

C.Mác và Ph.Ăngghen dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản công nghiệp, giai cấp vô sản nhà máy, giai cấp vô sản công xưởng… Tất cả những thuật ngữ đó đều dùng để chỉ giai cấp công nhân với tư cách là sản phẩm, là con đẻ của nền văn minh công nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xem xét sự ra đời của giai cấp công nhân trên hai phương diện: kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội.

Ở phương diện kinh tế - xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ làm rõ: sự xuất hiện của nền đại công nghiệp cơ khí đã ra đời một lực lượng xã hội mới là lao động làm thuê cho giai cấp tư sản trong các cơ sở sản xuất công nghiệp. Trong thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản là giai cấp gồm những người không có tư liệu sản xuất, phải sống chủ yếu bằng việc bán sức lao động cho nhà tư bản nên còn được gọi là vô sản công nghiệp. Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền sản xuất đại công nghiệp là điều kiện để giai cấp công nhân ngày càng đông đảo: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[2, tr.610].

C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh, công nhân chỉ có thể sống được bằng việc là bán sức lao động, nhưng công nhân chỉ bán được sức lao động của mình khi nó phải sinh lời cho nhà tư bản: “Giai cấp công nhân hiện đại... Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác”[2, tr.605]. Đồng thời, không ai khác ngoài nhà tư bản có thể mua sức lao động của công nhân. Chính trong quá trình lao động, công nhân bị bóc lột sức lao động và tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Ngày nay, gọi công nhân ở các nước tư bản là giai cấp vô sản thì không hoàn toàn chính xác. Thực tiễn đã chứng minh rằng, quá trình cổ phần hóa và trung lưu hóa ở các nước tư bản đã làm cho mức sống của giai cấp công nhân được nâng lên. Quá trình này chỉ làm thay đổi về hình thức sở hữu trong chủ nghĩa tư bản: công nhân có tư liệu sản xuất; tuy nhiên, lượng tư liệu sản xuất đó không đủ làm thay đổi địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân, họ vẫn là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư.

Ở phương diện chính trị - xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm rõ: do bị bóc lột trong lao động nên mâu thuẫn về lợi ích kinh tế tất yếu nảy sinh và dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích chính trị, biểu hiện thành cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng gay gắt và không ngừng chuyển biến về trình độ, từ đấu tranh tự phát chuyển lên đấu tranh tự giác. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã dự báo rằng, trong cuộc đấu tranh ấy, thắng lợi của giai cấp công nhân và thất bại của giai cấp tư sản là tất yếu.

Ngày nay, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn tồn tại, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những biện pháp nhằm điều hòa mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản nhưng cũng chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể thủ tiêu hoàn toàn mâu thuẫn đó. Do đó, những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản vẫn tiếp diễn và có sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng hơn.

Từ việc phân tích hai phương diện như trên về nguồn gốc giai cấp công nhân, cùng với đó là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong bối cảnh thời đại mới, có thể khái quát lại một số nội dung về giai cấp công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.

2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc điểm của giai cấp công nhân và những điểm mới về nhận thức hiện nay

Trong thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen (thế kỷ XIX), từ việc nghiên cứu giai cấp công nhân trên phương diện kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội, các ông đã chỉ ra ba đặc điểm của giai cấp công nhân là:

Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính xã hội hóa. Mỗi lực lượng lao động xã hội đều có phương thức lao động của mình. Công nhân không phải là lực lượng xã hội duy nhất tạo ra của cải vật chất nhưng họ tạo ra lượng của cải chủ yếu nhất cho chủ nghĩa tư bản vì gắn với phương thức lao động tiên tiến nhất, hiện đại nhất. Ngày nay, giai cấp công nhân vẫn là lực lượng lao động gắn với phương thức công nghiệp để tạo ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, dù là ở các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn chứng minh rằng, lao động công nghiệp vẫn là phương thức lao động hiện đại nhất cho đến hiện nay.

Thứ hai, là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Gắn với phương thức lao động tiên tiến nhất trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội nên giai cấp công nhân là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến và phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Thứ ba, là giai cấp có những phẩm chất đặc biệt, tính tiên phong cách mạng; tính tổ chức, tính kỷ luật; tính cách mạng triệt để, mang bản chất quốc tế.

Giai cấp công nhân có tính tiên phong cách mạng hay còn gọi là giai cấp tiên tiến nhất vì: gắn với phương thức lao động hiện đại nhất, tiên tiến nhất; tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến của thời đại; có hệ tư tưởng khoa học và cách mạng nhất thời đại.

Tính tổ chức kỷ luật cao của giai cấp công nhân bắt nguồn từ điều kiện làm việc và điều kiện sống của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, việc thành lập chính đảng của mình là Đảng Cộng sản đã giúp giai cấp công nhân có sự quản lý, giáo dục, rèn luyện của tổ chức. Tất cả các yếu tố này đã làm hình thành tính tổ chức, kỷ luật cao của giai cấp công nhân.

Tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ, công nhân không chỉ giải phóng giai cấp mình mà còn giải phóng tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội khác; không chỉ giải phóng dân tộc mình mà còn giải phóng tất cả các dân tộc thoát khỏi chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Thủ tiêu áp bức giai cấp thì sẽ thủ tiêu được tình trạng áp bức dân tộc.

Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế tức là công nhân thực hiện liên hiệp với nhau trên phạm vi toàn thế giới. Chỉ khi liên hiệp giai cấp công nhân và các dân tộc thì mới đủ thực lực cách mạng để chiến thắng chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản. V.I.Lênin từng nói: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”[6, tr.198-199]. Những phẩm chất đặc biệt của giai cấp công nhân cho thấy: đây là giai cấp ưu tú nhất trong các lực lượng cách mạng. Do đó, giai cấp công nhân không chỉ tham gia vào cuộc cách mạng với tư cách là thành viên mà còn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.

Ngày nay, những đặc điểm này của giai cấp công nhân vẫn được giữ nguyên, đã khẳng định những giá trị lịch sử bền vững của Chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, trước những biến đổi của điều kiện lịch sử mới thì giai cấp công nhân cũng có những đặc điểm mới cần được nhận thức một cách thấu đáo. Trong đó là:

Một là, xu hướng “trí tuệ hóa” tăng nhanh.

Xu hướng “trí tuệ hóa” ở giai cấp công nhân đã xuất hiện từ khi có cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất (giữa thế kỷ XVIII). Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (đầu thế kỷ XXI), làm cho xu hướng “trí tuệ hóa” ở giai cấp công nhân diễn ra nhanh hơn. Nguyên nhân của xu hướng này là do tốc độ phát triển của khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay diễn ra nhanh hơn so với thế kỷ XIX.

Xu hướng “trí tuệ hóa” ở giai cấp công nhân đã làm xuất hiện những thuật ngữ mới dùng để chỉ giai cấp công nhân như: công nhân tri thức, công nhân cổ cồn, công nhân áo trắng,… Xu hướng “trí tuệ hóa” giúp người công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo lại.

Hai là, xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng.

Xu hướng này biểu thị ở thu nhập, mức sống của công nhân ngày càng tốt hơn. Nguyên nhân của xu hướng này là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm nâng cao mức sống chung của toàn xã hội trong đó có giai cấp công nhân; do thực hiện quá trình cổ phần hóa ở các nước tư bản làm cho công nhân ít nhiều có tư liệu sản xuất (đó là lượng cổ phần mà công nhân sở hữu); đồng thời một bộ phận công nhân có trình độ chuyên môn giỏi được các nhà tư bản có chính sách trọng dụng, đãi ngộ để gắn bó lâu dài với doanh nghiệp nên thu nhập của họ ở mức khá so với mặt bằng chung của xã hội.

Ba là, công nhân trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn vốn xã hội quan trọng nhất trong các nguồn vốn của xã hội hiện đại.

Ở các quốc gia đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai cấp công nhân là lực lượng lao động công nghiệp, là nguồn lực cơ bản trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội, có nhiều tiềm năng phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp.

Bốn là, xuất hiện những hình thức liên kết mới, mô hình lao động mới.

Sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ công nghiệp đang làm xuất hiện nhiều hình thức liên kết mới giữa công nhân với các lực lượng lao động khác và nhiều mô hình lao động mới của công nhân như: liên kết năm nhà, xuất khẩu lao động tại chỗ, làm việc tại nhà, nhóm chuyên gia quốc tế, quốc tế hóa các tiêu chuẩn trong sản xuất công nghiệp...

Trong đó: liên kết năm nhà là mô hình liên kết về kinh tế giữa công nhân với nhà doanh nghiệp, nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà bank (ngân hàng); xuất khẩu lao động tại chỗ là hình thức liên kết kinh tế giữa công nhân ở quốc gia sở tại với doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư; làm việc tại nhà là một hình thức lao động của công nhân rất linh hoạt, đặc biệt phù hợp trong trường hợp xảy ra đại dịch. Hình thức lao động này không bắt buộc phải diễn ra ở xưởng sản xuất hay nhà máy lại vừa đảm bảo hiệu quả lao động; chuyên gia quốc tế là mô hình liên kết, hợp tác trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo người lao động giữa công nhân giỏi về chuyên môn và có kinh nghiệm làm việc (gọi là các chuyên gia) là người nước ngoài với công nhân ở các nước sở tại. quốc tế hóa các tiêu chuẩn trong sản xuất công nghiệp là một mô hình kinh tế mà trong đó công nhân phải tuân theo quy trình đạt chuẩn quốc tế (ISO) về quản lý chất lượng, quản lý môi trường, quản lý an toàn thực phẩm, quản lý an toàn sức khỏe, quản lý an toàn thông tin...

Năm là, giai cấp giữ vai trò lãnh đạo (thông qua chính Đảng Cộng sản) trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước.

Từ đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện trên thế giới và xuất hiện đầu tiên ở nước Nga sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười năm 1917. Sau khi chiến tranh thế giới II kết thúc (năm 1945), chủ nghĩa xã hội từ một nước trở thành một hệ thống trên thế giới. Đối với những quốc gia xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo (thông qua Đảng Cộng sản) trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở các quốc gia này, giai cấp công nhân đã hoàn thành giai đoạn thứ nhất và đang từng bước thực hiện giai đoạn hai trong tiến trình sứ mệnh lịch sử của mình.

Sáu là, có sự biến đổi lớn về cơ cấu xã hội - giai cấp.

Đó là sự xuất hiện những đối tượng công nhân mới bên cạnh công nhân truyền thống. Công nhân truyền thống là lực lượng công nhân trực tiếp đứng máy, vận hành dây chuyền sản xuất công nghiệp để tạo ra các sản phẩm công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện ngày càng nhiều các ngành, nghề mới, làm cho giai cấp công nhân cũng ngày càng đa dạng. Bên cạnh đội ngũ công nhân truyền thống còn xuất hiện đội ngũ công nhân mới như: công nhân kỹ thuật, những người làm công ăn lương giúp việc cho bộ máy quản lý trong các doanh nghiệp, những người làm công ăn lương trong các ngành sản xuất năng lượng và giao thông vận tải, những người làm công ăn lương trong một số khâu của ngành thương nghiệp, những người làm công ăn lương trong những ngành đang được công nghiệp hóa trở thành dịch vụ công nghiệp.

Công nhân kỹ thuật là đội ngũ công nhân chuyên đảm nhận vai trò bảo trì, bảo dưỡng máy móc và dây chuyền sản xuất công nghiệp nhằm đảm bảo về kỹ thuật, an toàn, hiệu quả trong quá trình lao động của công nhân truyền thống.

Những người làm công ăn lương giúp việc cho bộ máy quản lý trong các doanh nghiệp là những công nhân đảm nhận vị trí trợ lý, giúp việc, giải quyết những công việc hành chính, sự vụ giúp cho các ông chủ doanh nghiệp.

Những người làm công ăn lương trong các ngành sản xuất năng lượng và giao thông vận tải là những lao động làm thuê trong các ngành sản xuất, chế biến than, khí đốt, ngành điện (nhiệt điện, thủy điện, điện hạt nhân, điện gió, điện mặt trời), ngành giao thông vận tải. Những ngành này rất quan trọng, đóng vai trò phục vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp, không có những ngành này thì sản xuất công nghiệp không thể tồn tại được.

Những người làm công ăn lương trong một số khâu của ngành thương nghiệp là những người thực hiện công việc tiếp thị, giao dịch, bán hàng, marketing. Đây là một số khâu của thương nghiệp và phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong bối cảnh sản xuất ngày càng nhiều hàng hóa công nghiệp, thị trường rộng lớn, hình thức mua sắm có nhiều thay đổi thì một số khâu của thương nghiệp giúp đẩy mạnh quá trình đưa hàng hóa đến với người tiêu dùng, tiêu thụ sản phẩm nhanh. Sản xuất và tiêu thụ hàng hóa không thể tách rời nhau. Tiêu thụ hàng hóa tốt giúp thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ.

Những người làm công ăn lương trong những ngành đang được công nghiệp hóa trở thành dịch vụ công nghiệp là những lao động làm thuê trong lĩnh vực du lịch, ngân hàng, tài chính, bưu chính viễn thông. Đây là những ngành phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Những ngành này đang được công nghiệp hóa trở thành các ngành dịch vụ công nghiệp.

Bảy là, gắn với cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giai cấp công nhân hiện đại tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng.

Sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo nhiều cơ hội cho giai cấp công nhân có thể tận dụng để phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đây là xu hướng biến đổi tất yếu của giai cấp công nhân.

Kết luận

Những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay cho thấy lý luận và thực tiễn về giai cấp công nhân vẫn luôn có những vấn đề mới đặt ra, yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới chính sách cho phù hớp với sự phát triển của giai cấp công nhân, đáp ứng nhiệm vụ đặt ra và tương xứng với vị thế của giai cấp lãnh đạo trong giai đoạn lịch sử mới.

Nhận thức đúng đắn những điểm tương đồng và những nét khác biệt của giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân trong thế kỷ XIX không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn về có giá trị về mặt thực tiễn. Sự biến đổi của thực tiễn đặt ra yêu cầu cần phải luôn đổi mới về lý luận. Đó cũng là thông điệp mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã gửi đến và luôn mong muốn giai cấp công nhân và các Đảng Cộng sản trên thế giới ghi nhớ, thực hiện. Ph.Ăngghen đã từng nói: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[3, tr.796].

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] V. I. Lênin (2005), Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 41, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tin liên quan

Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

Tác giả: NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.