Thứ Tư, ngày 16/10/2024, 10:29

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam*

Lục Việt Dũng
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Bài viết khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ đó, soi chiếu vào thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Hoàn thiện pháp luật phục vụ chuyển đổi số Quốc gia 

(nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Sau gần hai mươi năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, pháp luật nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, một số nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn đòi hỏi phải được khắc phục kịp thời. Với vai trò là nền tảng, tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật để vận dụng sáng tạo trong thực tiễn hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật trong xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Nếu như chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng, thì pháp luật lại là vấn đề cốt yếu của mọi chính quyền[11]; vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật với những quan điểm nổi bật như sau:

Thứ nhất, pháp luật phải bảo đảm chủ quyền nhân dân. Xuất phát từ quan điểm “dân là gốc” nên hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải ghi nhận các nội dung khẳng định vị thế “là chủ”; cũng như quy định cách thức phát huy quyền “làm chủ” của nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân”[8, tr.81]. Pháp luật phải bảo vệ nhân dân chứ không phải là công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm mục đích chống lại nhân dân. Muốn vậy, mọi chính sách, pháp luật phải phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Để đạt được yêu cầu này, cần thiết “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian. Trước kia việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí”[6, tr.338].

Thứ hai, pháp luật phải công bằng và thống nhất. Khác với pháp luật trong nhà nước chiếm hữu nô lệ hay nhà nước phong kiến khi pháp luật được ban hành nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ; pháp luật trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa đặt tiêu chí công bằng lên hàng đầu. Chứng kiến cảnh bất công dưới chế độ phong kiến nửa thực dân tồn tại ở Việt Nam cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; Hồ Chí Minh đã tố cáo sự bất công của pháp luật thực dân qua luận điểm: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu vụ kiện cáo giữa người An Nam với người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết người”[5, tr.420]. Qua đó, Người yêu cầu pháp luật phải bảo đảm tính công bằng, bình đẳng không chỉ về quyền lợi mà còn cả về nghĩa vụ. 

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh pháp luật không chỉ cần công bằng, dân chủ mà còn phải có tính thống nhất. Pháp chế thống nhất thì mới có sự “ăn khớp” nhịp nhàng trong hoạt động của bộ máy nhà nước, luật pháp mới được thi hành nghiêm minh và mới chống được căn bệnh phân tán, địa phương chủ nghĩa. Đề cao nguyên tắc công bằng, dân chủ và thống nhất, Hồ Chí Minh hướng đạo nền pháp luật Việt Nam xây dựng theo các nguyên tắc đó[11]

Thứ ba, pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức. Một trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đó là tính nhân văn, xét về bản chất đó là tư tưởng nhân đạo cộng sản cao cả nhằm mục tiêu giải phóng con người, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức, khi giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Người dùng phương pháp nêu gương, chỉ khi “làm gương không xong, thì sẽ dùng luật pháp mà trị”[4, tr.98]. Tư tưởng này thể hiện rõ trong thông qua luận điểm của Người khi nói về đạo đức công dân “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước”[8, tr.258]. Lấy đạo đức làm gốc, xây dựng pháp luật trên nền tảng đạo đức và lấy luật pháp làm công cụ củng cố đạo đức là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh. Pháp quyền Hồ Chí Minh, do đó được mệnh danh là “pháp quyền nhân nghĩa”. 

Thứ tư, pháp luật phải nghiêm minh. Bên cạnh tính nhân văn, Hồ Chí Minh quan niệm hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn phải bảo đảm tính nghiêm minh, nghiêm khắc; tất cả mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, bao gồm cả các cơ quan nhà nước cũng phải tuân thủ, không ai được đứng trên và đứng ngoài vòng pháp luật. Người khẳng định: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”[7, tr.49]. Pháp luật phải trừng trị nghiêm minh đối với những người vi phạm, cho dù người đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, tuyệt nhiên không có vùng cấm trong thực thi pháp luật. 

Thứ năm, pháp luật phải phù hợp với các giá trị tiến bộ của pháp luật quốc tế. Tư tưởng này được thể hiện rất rõ qua quá trình xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định hiến pháp Việt Nam “cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”[1]. Kể cả khi xây dựng Hiến pháp năm 1959, Người cũng nhấn mạnh không chỉ nghiên cứu kỹ tình hình đất nước, nghiên cứu lại bản Hiến pháp năm 1946 mà còn phải: “Tham khảo Hiến pháp của các nước bạn và của một số nước tư bản có tính chất điển hình”[2]. Điều này cho thấy tư duy tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không cục bộ, bản vị mà phải tiếp thu tinh hoa, các giá trị tiến bộ trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật nước ta.

Thứ sáu, gắn kết chặt chẽ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật với hoạt động tổ chức thực thi pháp luật. Đây là một yêu cầu mà Hồ Chí Minh rất quan tâm, chú trọng. Người cho rằng pháp luật dù hoàn thiện, tiến bộ đến đâu cũng sẽ chỉ là hình thức và trở nên vô nghĩa nếu nó không được tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để trong thực tiễn cuộc sống. Để có “Thượng tôn pháp luật” - chuẩn mực đạo đức cao nhất của mọi công dân trong Nhà nước pháp quyền thì “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân,... tuân theo pháp luật của Chính phủ”[7, tr.564]. Muốn như vậy thì cần phải quan tâm đến vấn đề làm thế nào để pháp luật được thực thi. Người cho rằng trước hết, pháp luật phải đầy đủ, chính xác. Sau đó, pháp luật phải được phổ biến rộng rãi đối với người dân, làm cho dân hiểu rõ pháp luật để sống và làm theo pháp luật, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật vào hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Đối chiếu thực tiễn pháp luật Việt Nam trong thời gian qua với những chỉ dẫn trong tư tưởng của Hồ Chí Minh cho thấy các quy định không ngừng được hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Về cơ bản, pháp luật đã làm tốt vai trò bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân khi hiến định nhà nước ta là nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”[3]. Thể chế hóa nội dung Điều 4 Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các quyền dân chủ của người dân được quy định và cụ thể hóa cách thức thực hiện qua các luật, bộ luật quan trọng như Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Trưng cầu ý dân năm 2019, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022... Không dừng lại ở việc ghi nhận các quyền dân chủ, pháp luật Việt Nam cũng “ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người”[3] trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa, giá trị tiến bộ của pháp luật quốc tế; bảo đảm pháp luật công bằng, nghiêm minh nhưng cũng nhân văn, đạo đức với các nguyên tắc mọi hành vi vi phạm đều phải bị xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ, nguyên tắc nhân đạo được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hay 16 nguyên tắc nhân văn, đặc thù được đưa vào dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tháng 4/2024... Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, pháp luật Việt Nam cũng còn những hạn chế cần khắc phục đó là vẫn tồn tại các quy định chồng chéo, xung đột, thiếu thống nhất, xa rời thực tế; theo báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chỉ ra 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu, tiêu biểu như giữa các văn bản luật: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Đấu thầu; Luật Nhà ở[10]. Điều này đã làm giảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con người, quyền công dân có mặt chưa được phát huy đầy đủ[9]. Những hạn chế nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân như quy trình xây dựng pháp luật chưa hoàn thiện, đặc biệt là khâu hoạch định chính sách; năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; nguồn lực dành cho hoạt động hoàn thiện hệ thống pháp luật còn hạn chế... Từ đó, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng những nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới, cụ thể như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền dân chủ của Nhân dân như quy định rõ cơ chế để nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước; trình tự, thủ tục cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; cách thức thực hiện quyền tiếp cận thông tin, quyền kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo... Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định bảo đảm, bảo vệ quyền con người quyền công dân phù hợp với Công ước ICCPR, ICESCR và các điều ước quốc tế về quyền con người. Nghiên cứu bổ sung quyền của nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính, chuyển giới; bảo đảm xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử, định kiến và tạo điều kiện thuận lợi để họ hưởng thụ quyền một cách tốt nhất.

Thứ hai, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả.

Để các quy định pháp luật khả thi trong thực tiễn cần thiết phải gắn kết chặt chẽ hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh; muốn như vậy, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Cần thực hiện tốt khâu hoạch định chính sách, đánh giá tác động chính sách theo hướng bảo đảm cả hai nội dung định tính và định lượng. Hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đổi mới cách thức lấy ý kiến của Nhân dân theo hướng phân loại đối tượng cụ thể để lấy ý kiến về những vấn đề còn nhiều bàn luận, tranh cãi; vấn đề liên quan trực tiếp đến họ; tránh xin ý kiến tràn lan, không trọng tâm, trọng điểm.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. 

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là khâu đầu vào then chốt giúp nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật. Hiện nay, có nhiều chương trình bồi dưỡng về lĩnh vực này, nhưng còn nặng về lý thuyết mà thiếu tính thực tế nên hiệu quả thấp. Chương trình bồi dưỡng về xây dựng văn bản không thể chỉ đặt ra với các cơ quan xây dựng luật, trường dạy luật, mà cần mở rộng hơn để phổ biến kiến thức cho nhiều người. Đó là cơ sở để phát hiện các sai trái trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật; những người có trách nhiệm soạn thảo văn bản và giám sát công việc này cần được bồi dưỡng thường xuyên để tránh các sai lầm không đáng có.

Thứ tư, bảo đảm các điều kiện vật chất trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí thoả đáng cho công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đầu tư hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc đầu tư không thoả đáng dẫn đến hậu quả chất lượng ban hành văn bản không cao, văn bản quy phạm pháp luật ra đời sức sống và tính ổn định của văn bản kém, văn bản được ban hành thường xuyên phải sửa đổi hoặc bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.

Kết luận

Hoàn thiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh vào hoàn thiện pháp luật góp phần khắc phục những hạn chế còn tồn tại; qua đó, tạo dựng hành lang pháp lý, chuẩn mực hành vi cho các chủ thể trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946, https://thuvienphapluat.vn

[2] Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1959, https://thuvienphapluat.vn

[3] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, https://thuvienphapluat.vn

[4] Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.

[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[9] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

[10] Hoàng Thị Kim Quế, Lê Thị Phương Nga (2022), Những hạn chế chủ yếu và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, https://noichinh.vn

[11] Trần Thị Minh Tuyết, Quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng vào công tác xây dựng pháp luật hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 03/2022.



*Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2024: “Quá trình phát triển nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Mã số CS.11-24.

Ngày nhận: 08/05/2024 Ngày phản biện: 22/05/2024 Duyệt đăng: 16/07/2024

Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

Tác giả: NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.