Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII xem xét Đề án xây dựng tổ chức
cơ sở đảng và đảng viên _ Ảnh: baochinhphu.vn
1. Mở đầu
Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền là sự phản ánh quy luật lịch sử
khách quan cách mạng Việt Nam và thể hiện sự tin tưởng, giao phó của nhân dân đối
với Đảng. Vị thế này không chỉ khẳng định sức mạnh, uy tín của Đảng mà còn tạo
ra những điều kiện thuận lợi để Đảng thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Điều
này đã được thực tiễn chứng minh qua các giai đoạn lịch sử.
Là
Đảng duy nhất cầm quyền, tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) giữ vai trò là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân
dân. TCCSĐ là cấp trực tiếp tổ chức triển khai đường lối, chủ trương của Đảng
vào thực tiễn, đồng thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng lên cấp
trên. TCCSĐ có vai trò quan trọng trong việc trực tiếp định hướng dư luận xã hội,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
2. Vai trò của xây dựng
tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
TCCSĐ
lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị và có trách nhiệm chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và có vai trò quan trọng trong việc
giáo dục, rèn luyện quần chúng để phát triển đảng, kết nạp và sàng lọc đảng
viên, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng và hệ thống chính trị, bảo đảm tính
tiên phong và trong sạch của Đảng. Bởi vậy, chất lượng của hệ thống TCCSĐ có ảnh
hưởng quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và uy tín của Đảng
với nhân dân.
Thực
tiễn đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của hệ thống TCCSĐ trong việc hiện
thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Thông qua các TCCSĐ, đường lối của Đảng
được cụ thể hóa, tác động đến toàn xã hội. Sự đổi mới và kết hợp hiệu quả các
phương thức lãnh đạo đã tăng cường hiệu lực lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng.
Trong
các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng
TCCSĐ bằng việc ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, tăng cường công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát,... , góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu nhiệm vụ cách mạng.
TCCSĐ
là nền tảng của Đảng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, do đó nâng cao chất lượng TCCSĐ là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên.
Sức
mạnh và sự trong sạch của TCCSĐ là sự cộng hưởng sức mạnh của tổ chức và từng đảng
viên. Đảng do các cá nhân đảng viên tạo nên, từng đảng viên mạnh sẽ làm cho tổ
chức mạnh và tổ chức mạnh sẽ tạo môi trường thuận lợi để mỗi đảng viên phát huy
năng lực. Đảng ta luôn chú trọng xây dựng tổ chức chặt chẽ, khoa học, đồng thời
không ngừng rèn luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ và từng cán bộ,
đảng viên. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo được thực hiện cẩn trọng, nhằm
tạo ra những tập thể đồng bộ, hiệu quả.
Tổ
chức cơ sở Đảng mạnh là do thực hành dân chủ, lấy dân làm gốc. Xây dựng Đảng
trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền, Đảng có khả năng thảo luận, tranh luận
một cách rộng rãi, dân chủ trong nội bộ và lấy ý kiến nhân dân về mọi vấn đề, từ
Cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể.
Điều này cũng xuất phát từ việc Đảng luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết,
không có bất kỳ lợi ích riêng nào khác.
Để
Đảng mạnh, phải phát huy dân chủ: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân
chúng bàn bạc...”(1), “Đưa mọi vấn đề cho
dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”(2).
Tổ
chức cơ sở đảng thể hiện rõ trong công tác tư tưởng. TCCSĐ có nhiệm vụ hàng đầu
là thực hiện công tác tư tưởng, thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân; chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, định hướng
dư luận theo hướng tích cực, kịp thời đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của TCCSĐ.
Trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, giao thông, công tác tư tưởng
giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
2. Tình hình công tác
xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở đảng
Trải
qua gần 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cách mạng Việt Nam đã vượt
qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, đưa đất nước vững bước tiến lên CNXH. Những thành tựu đó là kết quả của quá
trình nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là sự hy sinh, cống hiến không
ngừng nghỉ của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam
không có lợi ích nào khác là phấn đấu cho lợi ích của dân tộc vì hoà bình độc lập
và phát triển. Là đảng duy nhất cầm quyền, từ Cương lĩnh, đường lối chiến lược
đến chủ trương, chính sách cụ thể Đảng đều có thể thảo luận, tranh luận rộng
rãi trong Đảng và lấy ý kiến của quần chúng nhân dân. Không chỉ thảo luận dân
chủ, rộng rãi trong nội bộ mà Đảng luôn đưa ra cho toàn dân thảo luận trước khi
quyết định.
Trải
qua các giai đoạn lịch sử, hệ thống TCCSĐ không ngừng phát triển và được hoàn
thiện, góp phần quan trọng đưa đường lối cách mạng thành hiện thực.
Trong
nhiệm kỳ Đại hội XII, XIII, công tác củng cố, xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất
lượng đảng viên đạt được kết quả nổi bật. Năm 2022, toàn Đảng có 51.686 TCCSĐ
thì đến tháng 6-2023 là 52.323. Tính đến ngày 31-12-2022, tổng số đảng viên
toàn Đảng là 5.380.573, đến tháng 6-2023 là 5.420.161 người. Sáu tháng đầu năm
2023, toàn Đảng kết nạp được 39.588 quần chúng ưu tú. Một số tỉnh ủy, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc Trung ương đã kết nạp đạt tỷ lệ từ 3% đến 4% tổng số đảng
viên. Đảng viên được kết nạp có cơ cấu độ tuổi tương đối phù hợp, số lượng đảng
viên nữ, trẻ, đồng bào dân tộc thiểu số, người có tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư
nhân tăng lên, tạo sinh lực mới cho Đảng(3).
Cùng
với tăng về số lượng, chất lượng đảng viên có chuyển biến tích cực, trình độ học
vấn, chuyên môn, lý luận chính trị ngày càng được nâng cao. Hiện nay, có trên
55% đảng viên có trình độ đại học và trên 60% đảng viên có trình độ lý luận
chính trị từ sơ cấp trở lên. Việc quản lý, rà soát, sàng lọc, đánh giá, xếp loại
chất lượng, kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ, xử lý đảng viên vi
phạm, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng được thực hiện nghiêm
túc. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” được đẩy mạnh.
Bên
cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, Đảng cũng đã nhận rõ những hạn chế, yếu
kém của hệ thống TCCSĐ cần khắc phục. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã thẳng
thắn chỉ ra những hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đặc biệt là tình trạng
nhiều TCCSĐ và bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa thực hiện nghiêm các
quy định của Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật.
Đảng đã chỉ rõ nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém
Công
tác tự phê bình và phê bình chưa thực sự đi vào chiều sâu, còn mang tính hình
thức, né tránh, thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm. Một số đảng viên
có biểu hiện suy giảm niềm tin, không tuân thủ kỷ luật phát ngôn, gây ảnh hưởng
tiêu cực đến uy tín của Đảng trong lòng dân.
Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí
trong thời gian qua vẫn còn diễn biến phức tạp, đặc biệt trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chức vụ trong bộ máy công quyền. Mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ,
cá nhân chủ nghĩa, lợi ích nhóm… không chỉ diễn ra ở cấp cơ sở mà còn xuất hiện
ở một số cơ quan Trung ương, doanh nghiệp nhà nước. Những điều này đã làm giảm
sút lòng tin của nhân dân với đảng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới vai trò lãnh đạo
của đảng.
Nhiều
TCCSĐ và đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong
nhận diện và đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Việc đấu tranh,
phản bác các luận điệu sai trái, thù địch còn mang tính hình thức, bị động, thiếu
hiệu quả.
Bên
cạnh đó, sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn hình thức, hiệu quả thấp. Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn yếu kém. Công tác tổ chức, cán bộ
còn nhiều bất cập, nhiều cán bộ, đảng viên chưa thể hiện tính tiên phong, gương
mẫu, còn quan liêu, xa rời thực tiễn. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng
chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa.
Đại
hội XIII đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của thực trạng công
tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đó là việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
một số nghị quyết còn chậm, thiếu quyết liệt và hiệu quả. Nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng ở một số nơi chưa được thực hiện nghiêm túc, thậm chí còn có
dấu hiệu vi phạm. Công tác tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức, thiếu tính kịp
thời và thuyết phục. Công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu và sự mong đợi của quần chúng
nhân dân.
Vai
trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn hạn chế.
Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên còn nhiều bất cập, sinh hoạt đảng còn hình
thức, thiếu tính chiến đấu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu, công
tác phát triển đảng viên ở một số địa bàn gặp nhiều khó khăn. Việc đánh giá, xếp
loại tổ chức đảng và đảng viên chưa thực chất, một bộ phận cán bộ, đảng viên
phai nhạt lý tưởng, suy giảm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng còn nhiều bất cập, công tác phòng ngừa
chưa được chú trọng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa đáp ứng yêu cầu,
công tác dân vận còn hạn chế. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã có
những kết quả nhưng chưa có chuyển biến rõ rệt, việc tự kiểm tra, tự phát hiện
của nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa kịp thời và xử lý còn yếu. Phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, cơ chế kiểm soát quyền lực
chưa đầy đủ, đồng bộ nên hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Những
hạn chế, yếu kém trên đã làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, ảnh hưởng đến
niềm tin của nhân dân, gây ra những nguy cơ trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của
Đảng và chế độ(4).
Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường
củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
trong giai đoạn mới đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong công tác
xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên thời gian
qua, đó là: (1) Chất lượng, năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế; chậm đổi mới phương
thức lãnh đạo; chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc; thực hiện chưa
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ cơ sở,
sinh hoạt cấp ủy, tinh thần tự phê bình và phê bình, công tác đánh giá, xếp loại
còn hạn chế; chưa thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong giải quyết những
khó khăn, bức xúc của nhân dân ở cơ sở. (2)
Một số cấp ủy cơ sở chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu; chưa
chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; mất
sức chiến đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm
pháp luật, giảm niềm tin của nhân dân với Đảng. (3)
Mô hình tổ chức một số loại hình tổ chức cơ sở đảng còn bất cập, chậm được kiện
toàn, sắp xếp. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng khu vực ngoài nhà nước, nhất là
doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế, tỉ lệ có tổ chức đảng, đảng viên thấp, vai
trò lãnh đạo mờ nhạt, lúng túng cả về nội dung và phương thức hoạt động. Một số
tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, ở ngoài nước… hoạt
động còn khó khăn. Một số nơi còn tình trạng “trắng” đảng viên. (4) Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ,
trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng
cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu;
tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng;
suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng,
vi phạm pháp luật. (5) Nhận thức về Đảng, động
cơ phấn đấu vào Đảng của không ít đảng viên chưa đúng, không trong sáng. (6) Cơ cấu đảng viên chưa hợp lý; tỷ lệ đảng viên
trẻ chưa tương xứng với tiềm năng.
Nhận
thức rõ những hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng hệ thống TCCSĐ, Đảng ta đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, đảng viên. Xác định đây là nhiệm vụ cấp bách, then chốt, nhằm củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt được những thành
tựu mới.
3. Giải pháp tăng cường
xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ
sở đảng đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới
Một là, thực hành dân chủ, quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh lấy dân làm gốc, coi trọng vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi
quyết sách của Đảng “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc...”,
“Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. Đây là nguyên
tắc xuyên suốt trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh, là bài học quý báu
về phương pháp lãnh đạo, xây dựng và phát triển đất nước.
Thực
hiện tư tưởng này, TCCSĐ không chỉ là lắng nghe ý kiến của nhân dân mà còn tôn
trọng, tin tưởng và phát huy trí tuệ, sức mạnh của nhân dân, tạo sự đồng thuận
xã hội, bảo đảm mọi quyết sách của Đảng và Nhà nước thực sự vì dân, do dân và
phục vụ lợi ích của nhân dân.
Đảng
Cộng sản Việt Nam với nền tảng tư tưởng cách mạng, được nhân dân tin tưởng và
suy tôn là lực lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và xã hội. Nhân dân thông qua Đảng
để bày tỏ nguyện vọng, ý chí và thực hiện quyền làm chủ của mình. Mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng và Nhà nước được thể hiện rõ ràng: Nhà nước hoạt động dưới sự
lãnh đạo của Đảng, chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân. Các cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong bộ máy nhà nước đều do Đảng lựa chọn, giới thiệu và được nhân
dân bầu ra. Do đó, người dân phản ánh nguyện vọng, thắc mắc trực tiếp với cán bộ
lãnh đạo tổ chức đảng tại cơ sở, tin tưởng Đảng lắng nghe và giải quyết. Sự tin
tưởng này bắt nguồn từ những thành tựu mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân đạt được, đồng
thời từ việc Đảng luôn khẳng định vai trò đại diện cho lợi ích của nhân dân.
Tuy
nhiên, Đảng cũng nhận thức rõ rằng sự tin tưởng này cần được củng cố và vun đắp
không ngừng thông qua việc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng nói chung, trong đó có hệ thống TCCSĐ, để Đảng thực sự là người đại diện
trung thành cho lợi ích của nhân dân
Hai là, là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng
sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo những vấn đề lớn lao của đất nước, mà còn có
trách nhiệm sâu sắc đối với đời sống hàng ngày của nhân dân. V.I.Lênin đã nhấn
mạnh khi ông đòi hỏi Đảng phải luôn “liên hệ với quần chúng. Sống trong lòng quần
chúng. Biết tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần
chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”(5).
Tư
tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhấn mạnh vai trò
then chốt của việc gắn bó mật thiết với nhân dân, bởi lẽ để lãnh đạo thành
công, Đảng không thể đứng ngoài quần chúng mà phải “sống trong lòng quần
chúng”, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng và khó khăn của họ. Do đó, “liên hệ với
quần chúng” không chỉ là khẩu hiệu, mà còn là phương châm hành động cụ thể. Đảng
cần chủ động tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi đó là nguồn thông tin
quan trọng để hoạch định đường lối, chính sách. Hơn thế nữa, “biết tâm trạng quần
chúng” là thấu hiểu những suy nghĩ, cảm xúc của nhân dân, từ đó có những hành động
phù hợp, đáp ứng đúng nhu cầu và nguyện vọng của họ.
Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom
đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét
là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm
là Ðảng và Chính phủ có lỗi”(6). Điều này thể
hiện rõ quan điểm “dân là gốc” của Đảng, coi việc chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu.
Để
“biết tất cả. Hiểu quần chúng”, đòi hỏi các TCCSĐ phải có sự am hiểu sâu sắc về
đời sống xã hội, về những vấn đề mà nhân dân quan tâm. Chỉ khi hiểu rõ quần
chúng, Đảng mới có thể đề ra những giải pháp đúng đắn, thiết thực.
Bên
cạnh đó, “biết đến với quần chúng” là sự chủ động, gần gũi của Đảng với nhân
dân. Đảng cần có mặt ở những nơi nhân dân cần, chia sẻ khó khăn, động viên,
khích lệ nhân dân. Cuối cùng, “giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng” là
mục tiêu cuối cùng của Đảng. Bởi lẽ, lòng tin của nhân dân là tài sản vô giá,
là sức mạnh to lớn để Đảng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Ba là, kiểm soát quyền lực, phòng chống bệnh
quan liêu
Vị
thế đảng duy nhất cầm quyền cũng tiềm ẩn những nguy cơ, dễ dẫn đến chủ quan, tự
mãn, quan liêu, xa rời nhân dân, thậm chí là lạm dụng quyền lực. Bệnh quan liêu
trong hoạt động quản lý nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, thường gắn
liền với sự suy thoái, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Khi tính dân chủ trong Đảng
bị xói mòn, việc thực hiện dân chủ đối với nhân dân cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Đây chính là nguy lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, đặc biệt là đối với những
người nắm giữ quyền lực.
Để
phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ này, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
là vấn đề sống còn. Trong bối cảnh đảng duy nhất cầm quyền, việc tăng cường vai
trò của đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng trở nên đặc biệt quan trọng. Đây là
biện pháp hữu hiệu để tạo ra sức mạnh nội tại giúp Đảng luôn vững mạnh và trong
sạch.
Bốn là, tăng cường thực hiện các giải pháp
xây dựng và chính đốn Đảng
Thực
tế cho thấy, hoạt động của TCCSĐ và đảng viên đang đối mặt với nhiều thách thức.
Những mặt trái của cơ chế thị trường, sự tác động từ bên ngoài, cùng với những
diễn biến phức tạp trong xã hội, đã khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên suy
thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống. Tình trạng này đòi hỏi Đảng
phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, đồng thời đẩy mạnh
đấu tranh phê bình và tự phê bình.
Các
Đại hội IX, XI, XII và XIII của Đảng đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng
cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội, thực dụng.
Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII thể hiện quyết tâm chính trị cao của
toàn Đảng trong việc nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, kiên quyết sửa
chữa, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm.
Để
thực hiện thành công công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cần thiết lập nề nếp
phê bình và tự phê bình thường xuyên, yêu cầu cán bộ, đảng viên nghiêm túc chấp
hành các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, cần củng cố,
nâng cao công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, kết hợp chặt chẽ với thanh tra của
nhà nước và thanh tra, giám sát của nhân dân, mở rộng sự tham gia của nhân dân
vào công tác xây dựng Đảng. Qua đó, phẩm chất đạo đức của đảng viên sẽ được
nâng cao, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ được
ngăn chặn và đẩy lùi, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với
niềm tin của nhân dân.
Năm là, gắn kết chặt chẽ giữa công tác cán bộ,
đảng viên
Để
hoàn thành nhiệm vụ, mỗi TCCSĐ cần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn. Hồ
Chí Minh khẳng định cán bộ là cái gốc của mọi công việc, chất lượng đội ngũ cán
bộ ảnh hưởng trực tiếp đến thành công hay thất bại của Đảng, bởi khi đội ngũ
cán bộ không đạt yêu cầu, phẩm chất yếu, năng lực yếu, sẽ làm Đảng suy yếu, đường
lối của Đảng không thể trở thành hiện thực.
Mỗi
thời kỳ cách mạng, đều cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng, có phẩm chất và
năng lực đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ. Vì vậy, việc tăng cường công tác
cán bộ là một yêu cầu cấp thiết.
Các
TCCSĐ cần tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất
cả các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng
và chính sách. Đặc biệt, cần coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt,
trọng dụng nhân tài, đồng thời luôn chú trọng trẻ hóa đội ngũ cán bộ, kết hợp
hài hòa ba độ tuổi, đảm bảo tính kế thừa và phát triển.
Trong
công tác cán bộ, cần nắm vững quan điểm giai cấp, có chính sách đoàn kết, tập hợp
rộng rãi cán bộ, trọng dụng nhân tài của đất nước. Khai thác mặt mạnh của mỗi
loại cán bộ để bổ sung cho nhau, đồng thời đặc biệt coi trọng xây dựng và kiện
toàn đội ngũ cán bộ cấp chiến lược vĩ mô và cấp cơ sở.
Đổi
mới quan niệm và phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng dân chủ, kết
hợp chặt chẽ giữa tập thể và cá nhân, tuân thủ quy trình chặt chẽ, là yếu tố
quan trọng để phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi mặt của đời sống
xã hội, đưa đất nước ngày càng phát triển.
4. Kết luận
Trong
bối cảnh hiện nay, việc tăng cường xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nâng cao hiệu lực lãnh đạo của cấp ủy
cơ sở, tính tiền phong của cán bộ đảng viên là nhiệm vụ cấp thiết. Để đẩy mạnh
thực hiện nhiệm vụ này, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng với việc phát huy vai trò tiên phong của đội
ngũ cán bộ đảng viên. Tập trung vào đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo,
tăng cường dân chủ trong Đảng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, giữ vững và tăng cường niềm tin của
nhân dân với Đảng, để TCCSĐ là nền tảng cảu Đảng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
(theo https://lyluanchinhtri.vn)
Ngày
nhận bài: 8-7-2024; Ngày bình duyệt: 12-7-2024; Ngày duyệt đăng: 5-8-2024.
---------
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.334, 337.
(3) Hoàng Đăng Quang: Kết quả nổi bật trong củng
cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên,
https://www.xaydungdang.org.vn/, đăng ngày 11-2-2024.
(4) ĐCSVN: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Hà
Nội, 2016.
(5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.44, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006, tr.608.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.518.