Thứ Sáu, ngày 15/11/2024, 14:17

Giảng viên trường đảng tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện nay

Vũ Văn Hậu - Yên Ngọc Trung
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, chỉ đạo thực hành, đó là yêu cầu thường xuyên trong công tác lý luận của Đảng. Để gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy, giảng viên trường Đảng không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Bài viết phân tích cơ sở khoa học và những định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; nội dung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; các biện pháp tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của giảng viên trường Đảng hiện nay.

Lễ trao Giải thưởng “Nghiên cứu lý luận chính trị" lần thứ nhất (nguồn news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Giảng viên trường Đảng có nhiệm vụ giảng dạy lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Nhiệm vụ này yêu cầu giảng viên ngoài tiêu chuẩn, điều kiện về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn, thì nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ bắt buộc. Bởi vì, chỉ có thực hiện nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, giảng viên mới có thể giảng dạy thuyết phục và tạo niềm tin cho người học về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Với ý nghĩa, tầm quan trọng như vậy, bước vào giai đoạn phát triển mới, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận lại được tiếp tục đẩy mạnh và xác định là nhiệm vụ quan trọng: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tổng kết 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng”[5, tr.234-235].

1. Cơ sở lý luận và định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận

1.1. Cơ sở lý luận của tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận

V.I.Lênin khẳng định: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”[10, tr.179]. Con người từ trực quan những vấn đề thực tiễn sinh động mà tổng kết, rút ra những kết luận, kinh nghiệm, bài học để ứng xử, hành động phù hợp với thực tiễn đang diễn ra, nhằm cải tạo thực tiễn theo mục tiêu xác định. Đó là con đường hình thành của lý luận. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[8, tr.96], “là đem Thực tế trong lịch sử trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”[6, tr.273]. Người khẳng định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[6, tr.273-274]. Vì vậy, yêu cầu: “từ nay, công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”[6, tr.283]

Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm làm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế”[6, tr.275]. Người chỉ rõ: “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta phải giải quyết”[8, tr.97]. Người khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông... lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”[8, tr.95]. Như “Đảng ta nhờ kết hợp được chủ nghĩa Mác - Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”[8, tr.97]. Người đặc biệt căn dặn cán bộ học lý luận ở trường Đảng: “Việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn”[8, tr.95]

Để sự nghiệp cách mạng của Đảng ngày càng đạt nhiều thành tựu, “chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện kiện lịch sử cụ thể. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta”[8, tr.95]. Người cho rằng, học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học từng câu, từng chữ, vận dụng một cách máy móc mà là: “học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”[8, tr.95]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Muốn thay đổi xã hội thì không thể xa lìa thực tế hiện tại, không thể không nhìn vào thực tế hiện tại, càng không thể trốn tránh thực tế hiện tại, mà cũng không thể đầu hàng thực tế hiện tại”[7, tr.289]. 

Từ quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về sự thống nhất lý luận với thực tiễn, chúng ta hiểu rằng, không có một thứ lý luận chân chính nào mà không xuất phát từ thực tế, tách rời lý luận với thực tế sẽ rơi vào kinh nghiệm, giáo điều, sách vở đi đến quan liêu và kiêu ngạo. Ngược lại, nếu chỉ hành động theo kinh nghiệm, thói quen mà không nâng cao nhận thức thực tế bằng lý luận thì dễ rơi vào thực dụng, thiển cận, coi thường lý luận, khinh lý luận. Do sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nên đặt ra yêu cầu thường xuyên phải tổng kết thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Đối với người giảng viên trường Đảng, nhiệm vụ đó đặt ra cả trong nghiên cứu và giảng dạy. Nghiên cứu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn để giúp cán bộ của Đảng giải quyết tốt những yêu cầu đặt ra trong thực tiễn công tác. 

1.2. Định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận

Nhận thức rõ về vị trí, vai trò của lý luận, mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng và trong thời kỳ Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm, chỉ đạo công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận. Đại hội VII của Đảng nêu yêu cầu: “nâng cao trình độ và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, góp phần xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, lý giải những vấn đề mới mà cuộc sống đặt ra”[1, tr.95]

Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là: “Trước hết hướng vào những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, làm rõ căn cứ khoa học của các giải pháp, dự báo các xu hướng phát triển, góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[2, tr.140]. Triển khai quan điểm nêu tại Đại hội, Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28/3/1992, về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận một cách sáng tạo. Phương châm và quan điểm chỉ đạo việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn phải quán triệt bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, cần phát huy tính độc lập, sáng tạo, kế thừa những tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại; gắn với những tiến bộ, thành tựu khoa học của thế giới. 

Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014, về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, trên cơ sở chỉ ra việc thực hiện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn có những điểm hạn chế; đồng thời, Nghị quyết đã chỉ ra đề ra phương châm, nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác lý luận đến năm 2030.

Tiếp tục, Đại hội XII của Đảng nêu nhiệm vụ: “Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”[3, tr.201]. Đại hội XIII, mặc dù đánh giá cao công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã làm cho: “Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng”[5, tr.169-170], nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là những vấn đề mới, khó, phức tạp: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, phức tạp thực tiễn đặt ra chưa được làm sáng tỏ”[5, tr.172-173]. 

Quan điểm, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng nêu qua các kỳ Đại hội đã đặt yêu cầu, nhiệm vụ đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy trong hệ thống trường Đảng về thực hiện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và tổ chức giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn.

2. Giảng viên trường Đảng với nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện nay

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được hiểu là quá trình chủ thể sử dụng tư duy khoa học, phương pháp biện chứng duy vật làm cơ sở để phân tích, đánh giá, khái quát hóa quá trình hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học, nhằm kiểm nghiệm chân lý, kiểm tra sự đúng sai của lý luận để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra bài học kinh nghiệm chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo[9, tr.18-19]

Tổng kết thực tiễn có nhiều hình thức phong phú, đa dạng, nhưng để đạt được kết quả mong muốn thì chủ thể cần sử dụng công cụ, thao tác, các phương pháp, kỹ năng để xác định được: Vấn đề cần tổng kết; xây dựng kế hoạch tổng kết, xây dựng khung phân tích; lựa chọn chiến lược, cách thức tổng kết, phân tích; lựa chọn công cụ, hình thức thu thập thông tin; phân tích các thông tin, kiểm chứng thông tin để rút ra kết luận của quá trình tổng kết thực tiễn. Kết quả đó nâng cao nhận thức, trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị về Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, trên cơ sở đó Hướng dẫn số 02-HD/TW ngày 08 tháng 02 năm 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Hướng dẫn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, giảng viên trường Đảng cần thực hiện các định hướng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận sau:

(1) Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển sáng tạo. Tập trung đi sâu nghiên cứu giá trị văn hóa truyền thống, những bài học kinh nghiệm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam.

(2) Tiếp tục đi sâu nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, làm rõ tính chất, đặc điểm mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nghiên cứu tình hình thế giới và khu vực, cục diện, quan hệ giữa các nước lớn, các nước láng giềng và tương quan các lực lượng trên thế giới, những biến động về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng trong khu vực và thế giới; an ninh hàng hải trên thế giới và khu vực tầm nhìn đến năm 2030; các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo...

(3) Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc.

(4) Nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh những luận cứ khoa học làm cơ sở hoạch định đường lối, chính sách của Đảng: 

- Đi sâu nghiên cứu hệ thống quan điểm về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam; về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về phát triển kinh tế tri thức; về hội nhập quốc tế; về phát triển kinh tế nhanh và bền vững gắn với bảo vệ môi trường; giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội.

- Xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực để phát triển đất nước, văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị. Phát triển văn hóa để xây dựng con người phát triển toàn diện; thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thực sự coi trọng giáo dục và đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; làm rõ sự biến đổi cơ cấu, giai tầng xã hội, xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, bảo đảm quyền con người.

- Làm rõ mối quan hệ, kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng nền quốc phòng toàn dân với xây dựng nền an ninh nhân dân; giữa độc lập dân tộc với hội nhập quốc tế; các vấn đề về an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống. Dự báo những xu thế lớn của khu vực và thế giới, thời cơ, thuận lợi cũng như thách thức tác động tới công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ nghiêm kỷ cương xã hội. Vấn đề dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân đi đôi với hoàn thiện hệ thống chính trị, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong điều kiện mới; về xã hội dân sự trên thế giới.

- Tiếp tục làm rõ nguyên tắc tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng; nâng cao năng lực cầm quyền và phát huy dân chủ xã hội; về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; về tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, chống suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”[4].

3. Một số giải pháp tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện nay

Một là, tiếp tục bồi dưỡng giúp cho đội ngũ cán bộ giảng viên trường Đảng nắm vững các nguyên lý, quy luật, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm cơ sở nền tảng để nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Đồng thời, thúc đẩy tiếp thu các thành tựu lý luận mới của nhân loại để nhận thức rõ hơn về những vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn, cả những vấn đề lý luận trước đây là đúng, nhưng nay cần bổ sung, phát triển.

Hai là, cần thiết xây dựng các chương trình, nội dung, mục tiêu, lộ trình tổng kết các vấn đề thực tiễn gắn với việc triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước làm định hướng cho các nhóm nghiên cứu, các nhà khoa học lựa chọn nội dung, tổ chức nghiên cứu.

Ba là, tiếp tục phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ sở đào tạo, mỗi cán bộ giảng viên. Khuyến khích các trường Đảng khu vực chủ động đề xuất nội dung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn những vấn đề mới phát sinh gắn với vùng, địa bàn được phân công đào tạo, bồi dưỡng. 

Bốn là, tiếp tục xây dựng nội dung, kế hoạch bồi dưỡng cán bộ giảng viên kỹ năng về nghiên cứu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, xây dựng báo cáo kiến nghị. Định kỳ hằng năm tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ giảng viên, nhất là cán bộ giảng viên, cán bộ nghiên cứu trẻ. Chú trọng xây dựng các cuộc tọa đàm chia sẻ của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm, có sản phẩm nghiên cứu điển hình.

Năm là, chủ nhiệm các nhiệm vụ khoa học thực hiện đúng các cam kết, thuyết minh khoa học, trong đó lưu ý đến công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Xây dựng cơ chế khuyến khích hình thành các nhóm nghiên cứu, trong đó lưu ý đến cơ cấu độ tuổi, trình độ của nhóm, tiếp tục tạo điều kiện cho cán bộ nghiên cứu trẻ tham gia các nhiệm vụ khoa học.

Kết luận

Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, lý luận dẫn dắt thực tiễn, thực tiễn phát triển làm sáng rõ những nội dung lý luận. Trường Đảng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đối tượng người học là cán bộ, đảng viên đang công tác trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,... là những người tổ chức thực tiễn, có kiến thức thực tiễn phong phú. Vì vậy, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận của người cán bộ, giảng viên trường Đảng không chỉ có ý nghĩa trong công tác lý luận của Đảng mà còn có ý nghĩa, giá trị đặc biệt trong tổ chức giảng dạy, gắn lý luận với thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công tác của học viên; đồng thời, qua học viên để phát hiện những vấn đề thực tiễn mới cần được tổng kết. Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận cho đội ngũ giảng viên là giải pháp, là yêu cầu để thể hiện rõ vai trò, vị trí, bản chất của trường Đảng, góp phần vào phát triển lý luận, cải tạo thực tiễn để đất nước tiến tới phồn vinh, hạnh phúc.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[9] Trần Văn Phòng (2010), Tổng kết thực tiễn với việc phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

[10] V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 29, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tin liên quan

Đọc thêm

Hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

(GDLL) - Hoàn thiện thể chế về kinh tế số là một nội dung rất cấp thiết nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát khung lý thuyết thể chế về kinh tế số, bài viết phân tích thực trạng nội dung này ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - TRẦN HOÀI THU

(GDLL) - Việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, nắm rõ được điều đó, cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Nam Định quan tâm, chỉ đạo, tổ chức và triển khai hiệu quả. Bài viết trình bày nội dung, thành tựu và hạn chế của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

Tác giả: TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Tác giả: GIANG THỊ HUYỀN

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Tác giả: VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.