Thứ Sáu, ngày 15/11/2024, 14:19

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng của Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII trong tình hình mới

Nguyễn Đức Hạnh
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh, đất nước phải đối diện với rất nhiều nguy cơ, thách thức trên mọi lĩnh vực; đồng thời đứng trước sự lựa chọn, phân định bạn - thù, đối tác - đối tượng để định hình chiến lược, sách lược; đề ra và triển khai có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bài viết làm rõ bước phát triển của Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XIII) về quan điểm:“Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng” của cách mạng trong tình hình mới.

Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 8, khoá XIII (nguồn news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Sau 10 năm (2013-2023) thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nhận thức rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, đạt nhiều thành tích khá toàn diện. Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, trong nước và thực tiễn đặt ra, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” có nhiều nội dung quan trọng; nhất là quan điểm chỉ đạo, trong đó việc xác định đối tượng và đối tác là nội dung vô cùng quan trọng trong tình hình hiện nay.

1. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI và dự báo tình hình thế giới, khu vực, trong nước

1.1 Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI

 Sau 10 năm (2013-2023) thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã có nhận thức rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, đạt nhiều thành tích khá toàn diện:

 Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả. Chính trị, xã hội ổn định, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) được phát huy, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Kinh tế vĩ mô ổn định; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Thực hiện chặt chẽ, hiệu quả chủ trương phát triển kinh tế- xã hội (KT –XH) gắn với bảo đảm Quốc phòng, an ninh (QP, AN). Xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đạt nhiều kết quả quan trọng. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ được củng cố, tăng cường.

 Tư duy về BVTQ; QP, AN, đối tác, đối tượng có bước phát triển mới, ngày càng hoàn thiện; QP, AN không ngừng được củng cố và tăng cường; kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được tiến hành tích cực, chủ động, linh hoạt, đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, BVTQ từ sớm, từ xa, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, phải thẳng thắn nhìn nhận đúng về những hạn chế, thiếu sót. Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 25-10-2013, nêu rõ: “Việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng còn bất cập, chưa hoàn thiện, có nội dung còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách đặc biệt, đặc thù cho lĩnh vực QP, AN. KT-XH phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức; phát triển KT-XH gắn với bảo đảm QP, AN trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa được chú trọng. Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và quản lý đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị còn một số hạn chế”[4]; Trên thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ, mất cảnh giác, nhìn nhận phiến diện về vấn đề đối tượng, đối tác; chưa có quan điểm khách quan, toàn diện trong đánh giá các nguy cơ, thách thức và cơ hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích quốc gia- dân tộc; đồng thời, chưa gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu hội nhập quốc tế với yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam. 

1.2. Dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước

Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm hình thành ngày càng rõ nét hơn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, thậm chí đối đầu.Các nước tăng cường điều chỉnh chiến lược, lôi kéo, tập hợp lực lượng, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau và can dự, chi phối nội bộ nước khác. Tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh lợi ích giữa các nước diễn ra phức tạp, vừa mang lại cơ hội, vừa đặt các nước khác, nhất là các nước vừa và nhỏ trước những khó khăn, thách thức.

Các điểm nóng về an ninh có chiều hướng gia tăng, nguy cơ lan rộng, tác động đến hòa bình, an ninh và phát triển trên thế giới. Xuất hiện các hình thái chiến tranh, loại hình chiến tranh, không gian chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh mới. Khoa học-Công nghệ phát triển mạnh mẽ tạo ra những cơ hội nhưng cũng có khó khăn đối với mọi quốc gia. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương đứng trước những thách thức nghiêm trọng.

Châu Á-Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đông Nam Á phát triển năng động và tiếp tục trở thành trọng điểm cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn. Tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột tác động đến an ninh, an toàn hàng hải, hàng không...

Tình hình trong nước: Sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít khó khăn, thách thức đặt ra. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm còn tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định. Nguy cơ tranh chấp biển, đảo, đe dọa chủ quyền lãnh thổ, chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng gia tăng. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết, tăng cường chống phá công khai và trực diện với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi.

2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (từ ngày 02-10 đến ngày 8-10-2023), trên cơ sở phân tích tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong nước; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra và âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ta đã đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” (NQ 44). Trong đó, Đảng ta đã xác định một số nội dung quan trọng về mục tiêu, quan điểm, phương châm và nhiệm vụ và giải pháp: 

2.1. Về quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp

 Về quan điểm chỉ đạo: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, phát huy vai trò to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp XD&BVTQ; thực hiện hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân (QPTD), chiến tranh nhân dân với phương châm dựa vào dân, “dân là gốc”; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, yên dân là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp XD&BVTQ...

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp XD, BVTQ của Việt Nam đều là đối tượng.

 Về mục tiêu: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ XHCN; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp Đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) bảo vệ nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng...; đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình khu vực, thế giới.

Về phương châm chỉ đạo: Thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó lợi ích quốc gia-dân tộc là bất biến; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, linh hoạt về sách lược. Không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; chủ động phòng ngừa; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nắm chắc tình hình, phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả những yếu tố bất lợi, nguy cơ đột biến, thách thức ANTT, ANPTT từ cơ sở.

Về nhiệm vụ và giải pháp: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

 Tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ XHCN và quyền làm chủ của Nhân dân trong XD&BVTQ. 

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền vững; kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với tăng cường QP, AN.

Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp XD&BVTQ...

Những nội dung cơ bản của Nghị quyết đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ, khách quan, toàn diện trong tư duy của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; đây là cơ sở rất quan trọng để thực hiện có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trước những nguy cơ, thách thức đặt ra của bối cảnh thế giới phức tạp hiện nay. 

2.2. Quan điểm đối tác, đối tượng của Nghị quyết TW8 (Khóa XIII) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Việc xác định đối tác, đối tượng tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế; tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, dễ rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tác, đối tượng, là một trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu hành động chống phá sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc của ta đều là đối tượng[4].

Quan điểm trên vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, thì quan điểm lần này vừa có tính kế thừa nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:

Thứ nhất, quan điểm về đối tượng đấu tranh

Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: “bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta đều là đối tượng[4]. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia- dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia -dân tộc.

Điều này cũng phù hợp với phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra “Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia- dân tộc ta đang hướng tới.

Do đó, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính là các thế lực có âm mưu, hành động chống lại nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chống lại các lợi ích quốc gia- dân tộc Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn. Những thế lực đó đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.

Thứ hai, quan điểm về đối tác

Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2023, xác định “Những ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với Việt Nam đều là đối tác”. Điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. đồng thời cũng phù hợp với đường lối đối ngoại nhất quán được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[2, tr.162]; “ của Việt Nam tại Liên hợp quốc, APEC, ASEAN và các diễn đàn, cơ chế liên quan…”[3, tr.60].

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy. Do đó, việc tiếp tục cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” trong quan điểm cũ là một bước khẳng định rõ ràng rằng chúng ta là bạn, đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với chúng ta; không phải chỉ dừng lại ở mức độ “chủ trương”. Mặc dù vậy, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.

Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác

Trước đây, chỉ nêu “trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta” nhưng hiện nay, đã khẳng định: “trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Có thể thấy, Trung ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, không chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng.

Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Thậm chí có đối tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta phải vừa hợp tác, vừa phải đấu tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ có những đối tượng mâu thuẫn, khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định với chúng ta về ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ hoặc về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn còn có mặt có thể hợp tác được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối tượng vĩnh viễn.

Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta

Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác trong Nghị quyết 44-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà “cần phải đấu tranh”. Bằng sự mưu trí, sáng tạo để “đấu tranh” nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.

Tóm lại, trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ thuộc.

Kết luận

Trải qua ba kỳ đại hội, từ Hội nghị Trung ương 8 (Khóa IX) năm 2003, Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) năm 2013 đến Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XIII) năm 2023; trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước; nội dung cơ bản được Nghị quyết TW 8 (khóa XIII) xác định bao gồm hệ thống quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp; đây là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục ban hành đồng bộ chiến lược về Quốc phòng, quân sự và an ninh làm cơ sở để hiện thực hóa nghiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là quan điểm chỉ đạo trong vận dụng linh hoạt đối tác, đối tượng cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.

Tài liệu tham khảo:

[1]  Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tin liên quan

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.