Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết
Trung ương 8, khoá XIII (nguồn news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Sau 10 năm (2013-2023) thực hiện Nghị quyết Trung ương 8
khóa XI về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân đã nhận thức rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình
mới, đạt nhiều thành tích khá toàn diện. Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, khu vực, trong nước và thực tiễn đặt ra, Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình
hình mới” có nhiều nội dung quan trọng; nhất là quan điểm chỉ đạo, trong đó việc
xác định đối tượng và đối tác là nội dung vô cùng quan trọng trong tình hình hiện
nay.
1. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI và dự báo tình
hình thế giới, khu vực, trong nước
1.1 Kết quả thực hiện Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI
Sau
10 năm (2013-2023) thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược BVTQ
trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã có nhận thức rõ hơn yêu
cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, đạt nhiều thành tích khá toàn diện:
Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển
khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả. Chính trị, xã hội ổn định, dân chủ xã hội chủ
nghĩa (XHCN) được phát huy, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường.
Kinh tế vĩ mô ổn định; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được
nâng lên. Thực hiện chặt chẽ, hiệu quả chủ trương phát triển kinh tế- xã hội
(KT –XH) gắn với bảo đảm Quốc phòng, an ninh (QP, AN). Xây dựng, phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đạt nhiều kết quả quan trọng.
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ được củng
cố, tăng cường.
Tư
duy về BVTQ; QP, AN, đối tác, đối tượng có bước phát triển mới, ngày càng hoàn
thiện; QP, AN không ngừng được củng cố và tăng cường; kiên quyết, kiên trì giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân
tộc. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được tiến hành tích cực, chủ động,
linh hoạt, đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế, uy
tín của đất nước, BVTQ từ sớm, từ xa, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng,
phát triển đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, phải thẳng thắn
nhìn nhận đúng về những hạn chế, thiếu sót. Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, ngày 25-10-2013, nêu rõ: “Việc thể chế hóa chủ trương, đường
lối của Đảng còn bất cập, chưa hoàn thiện, có nội dung còn chậm; thiếu cơ chế,
chính sách đặc biệt, đặc thù cho lĩnh vực QP, AN. KT-XH phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức; phát triển
KT-XH gắn với bảo đảm QP, AN trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa được chú trọng.
Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN có lúc, có nơi
chưa được quan tâm đúng mức. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có mặt
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và quản lý đất nước trong tình hình mới.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị còn một số hạn chế”[4]; Trên thực tế, một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ, mất cảnh giác, nhìn nhận phiến
diện về vấn đề đối tượng, đối tác; chưa có quan điểm khách quan, toàn diện
trong đánh giá các nguy cơ, thách thức và cơ hội của đất nước trong quá trình hội
nhập quốc tế. Từ đó, chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích quốc gia- dân tộc; đồng
thời, chưa gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu hội nhập quốc tế với yêu cầu phát triển
bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc Việt
Nam.
1.2. Dự báo tình hình thế giới,
khu vực và trong nước
Thế giới
đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó
dự báo. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm hình thành ngày càng rõ nét hơn;
cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, thậm chí
đối đầu.Các
nước tăng cường điều chỉnh chiến lược, lôi kéo, tập hợp lực lượng, vừa hợp tác,
thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau và can dự, chi phối nội bộ nước
khác. Tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh lợi ích giữa các nước diễn ra phức
tạp, vừa mang lại cơ hội, vừa đặt các nước khác, nhất là các nước vừa và nhỏ
trước những khó khăn, thách thức.
Các điểm
nóng về an ninh có chiều hướng gia tăng, nguy cơ lan rộng, tác động đến hòa
bình, an ninh và phát triển trên thế giới. Xuất hiện các hình thái chiến tranh,
loại hình chiến tranh, không gian chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh
mới. Khoa học-Công nghệ phát triển mạnh mẽ tạo ra những cơ hội nhưng cũng có
khó khăn đối với mọi quốc gia. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương đứng
trước những thách thức nghiêm trọng.
Châu
Á-Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đông Nam Á phát triển năng động và tiếp tục trở
thành trọng điểm cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn. Tranh chấp chủ quyền,
lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn, tiềm
ẩn nhiều nguy cơ xung đột tác động đến an ninh, an toàn hàng hải, hàng không...
Tình
hình trong nước: Sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN bên cạnh thời cơ, thuận
lợi cũng gặp không ít khó khăn, thách thức đặt ra. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng
cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Biển
Đông, vùng biển Tây Nam và một số vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm còn tiềm ẩn
các yếu tố gây mất ổn định. Nguy cơ tranh chấp biển, đảo, đe dọa chủ quyền lãnh
thổ, chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng gia tăng. Các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết, tăng cường
chống phá công khai và trực diện với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi.
2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược
Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (từ ngày 02-10 đến ngày
8-10-2023), trên cơ sở phân tích tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong
nước; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra và âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ta đã đề ra “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” (NQ 44). Trong đó, Đảng ta đã xác định một
số nội dung quan trọng về mục tiêu, quan điểm, phương châm và nhiệm vụ và giải
pháp:
2.1. Về quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp
Về quan điểm chỉ đạo: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà
nước, phát huy vai trò to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp XD&BVTQ; thực hiện
hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân (QPTD), chiến tranh nhân dân với phương
châm dựa vào dân, “dân là gốc”; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, yên dân
là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp XD&BVTQ...
Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng:
Những ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát
triển với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống
phá sự nghiệp XD, BVTQ của Việt Nam đều là đối tượng.
Về mục tiêu: Bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ XHCN; bảo
vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp Đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) bảo vệ nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh
quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng...; đóng góp tích cực
vào gìn giữ hòa bình khu vực, thế giới.
Về phương châm chỉ đạo: Thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”,
trong đó lợi ích quốc gia-dân tộc là bất biến; kiên định về nguyên tắc, mục
tiêu chiến lược, linh hoạt về sách lược. Không tham gia liên minh quân sự,
không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ
quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Bảo vệ đất
nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; chủ động phòng ngừa; ngăn
ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “Diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch. Nắm chắc tình hình, phát hiện sớm, xử lý kịp
thời, hiệu quả những yếu tố bất lợi, nguy cơ đột biến, thách thức ANTT, ANPTT từ
cơ sở.
Về nhiệm vụ và giải pháp: Xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN.
Tăng
cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ XHCN và quyền làm chủ của
Nhân dân trong XD&BVTQ.
Xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển đất nước nhanh, toàn
diện, bền vững; kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với tăng cường QP, AN.
Về xây dựng
và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp
XD&BVTQ...
Những nội
dung cơ bản của Nghị quyết đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ, khách quan, toàn diện
trong tư duy của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; đây là cơ sở rất quan trọng để thực hiện
có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trước
những nguy cơ, thách thức đặt ra của bối cảnh thế giới phức tạp hiện nay.
2.2. Quan điểm đối tác, đối tượng
của Nghị quyết TW8 (Khóa XIII) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Việc xác
định đối tác, đối tượng tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế; tuy
nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, dễ rơi vào trạng thái mơ hồ, mất
cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách
lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tác, đối tượng, là một
trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề
đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng:
Những ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát
triển với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu hành động chống
phá sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc của ta đều là đối tượng”[4].
Quan điểm
trên vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận
về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, thì quan điểm
lần này vừa có tính kế thừa nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi
hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:
Thứ nhất, quan điểm về đối tượng đấu tranh
Trung
ương Đảng tiếp tục khẳng định: “bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống
phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta đều là đối tượng”[4]. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm
dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia- dân tộc Việt Nam
và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không
vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự
khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia -dân tộc.
Điều này
cũng phù hợp với phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra “Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia- dân tộc ta đang hướng
tới.
Do đó, bất
kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cũng chính là các thế lực có âm mưu, hành động chống lại nền độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chống lại các lợi ích quốc
gia- dân tộc Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn. Những thế lực đó
đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.
Thứ hai, quan điểm về đối tác
Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2023, xác định “Những
ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với
Việt Nam đều là đối tác”. Điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc
trong quan hệ quốc tế. đồng thời cũng phù hợp với đường lối đối ngoại nhất quán
được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội XIII: “Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[2, tr.162]; “ của Việt
Nam tại Liên hợp quốc, APEC, ASEAN và các diễn đàn, cơ chế liên quan…”[3, tr.60].
Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao,
trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy.
Do đó, việc tiếp tục cắt bỏ đi hai từ “chủ
trương” trong quan điểm cũ là một bước khẳng định rõ ràng rằng
chúng ta là bạn, đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi,
cùng phát triển với chúng ta; không phải chỉ dừng lại ở mức độ “chủ trương”. Mặc dù vậy, để bảo đảm tính
khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong
mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.
Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác
Trước
đây, chỉ nêu “trong một số đối tác,
có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta” nhưng hiện nay, đã khẳng
định: “trong mỗi đối tác có
thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Có thể thấy, Trung
ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn
về tính biện chứng trong mỗi đối tác,
không chỉ dừng lại ở một số đối tác như
trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng
tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng.
Như vậy,
đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những
đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng nhưng
cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Thậm chí có đối
tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta phải vừa hợp tác, vừa phải đấu
tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ có những đối tượng mâu thuẫn,
khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định với chúng ta về
ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ hoặc về lợi ích kinh tế, văn
hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn còn có mặt có thể hợp tác
được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối tượng vĩnh viễn.
Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác
biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta
Quan điểm
về vấn đề đối tượng, đối tác trong Nghị quyết 44-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng
sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối
tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà “cần phải đấu tranh”. Bằng sự mưu trí,
sáng tạo để “đấu tranh” nhằm
tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời
cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp
chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn,
lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải nhằm mục tiêu triệt tiêu đối
tác.
Tóm lại,
trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan,
toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có
thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc
rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối
tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định
chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt,
từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát
triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ
thuộc.
Kết luận
Trải qua
ba kỳ đại hội, từ Hội nghị Trung ương 8 (Khóa IX) năm 2003, Hội nghị Trung ương
8 (Khóa XI) năm 2013 đến Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XIII) năm 2023; trên cơ sở
phân tích đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước; nội dung cơ bản được
Nghị quyết TW 8 (khóa XIII) xác định bao gồm hệ thống quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu, phương châm, nhiệm vụ và giải pháp; đây là cơ sở rất quan trọng để chúng
ta tiếp tục ban hành đồng bộ chiến lược về Quốc phòng, quân sự và an ninh làm
cơ sở để hiện thực hóa nghiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là quan
điểm chỉ đạo trong vận dụng linh hoạt đối tác, đối tượng cách mạng Việt Nam
trong tình hình mới.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.